Nguyễn Thông có tên hiệu là Hy Phần, biệt hiệu là Đôn Am. Ông là người huyện Tân Thạnh Gia Định. Vào năm 23 tuổi đã đậu cử nhân của trường thi hương Gia Đình. Sau đó đã được bổ nhiệm làm huấn đạo huyện Phong Phú tỉnh Gia Định. Sau này ông cáo quan về quê dựng nhà riêng gọi là Ngọa Du Sào ở gần Phan Thiết cùng với bạn bè làm thơ ngâm vịnh. Dưới đây là những bài thơ hay của Nguyễn Thông mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ với bạn.

An Giang tống Trần Tử Mẫn Phú Yên quản đạo

安江送陳子敏富安管道 五月寒城裏, 含悽送遠遊。 有家皆作客, 多病獨移舟。 大嶺盤雲棧, 瞿山斗海流。 登林逢旅雁, 為負數行書An Giang tống Trần Tử Mẫn Phú Yên quản đạo Ngũ nguyệt hàn thành lý, Hàm thê tống viễn du. Hữu gia giai tác khách, Đa bệnh độc di chu. Đại Lãnh bàn vân sạn, Cù Sơn đấu hải lưu. Đăng lâm phùng lữ nhạn, Vị phụ sổ hàng thư.

Ba tiêu

芭蕉 障戶遮窗欲礙行, 解相炎景變凄清。 最憐月下微風度, 滿樹蕭蕭作雨聲。Ba tiêu Chướng hộ già song dục ngại hành, Giải tương viêm cảnh biến thê thanh. Tối liên nguyệt hạ vi phong độ, Mãn thụ tiêu tiêu tác vũ thanh.Dịch nghĩaNgăn cửa ngoài che cửa sổ, làm trở ngại cho người đi Nhưng biết đem cảnh nóng nực biến thành mát mẻ Rất đáng yêu dưới bóng trăng, lúc có làn gió hây hây Toàn cây rung động làm thành tiếng mưa lách tách

Biệt lâm hạ hoa

別林下花 每到叢邊輒醉歸, 未嫌幽獨惜芳菲。 林間會友相尋日, 莫逐東風一夜飛。Biệt lâm hạ hoa Mỗi đáo tùng biên triếp tuý quy, Vị hiềm u độc tích phương phi. Lâm gian hội hữu tương tầm nhật, Mạc trục đông phong nhất dạ phi.

Biệt Tùng Đường

別松堂 蕭蕭旦雨滿關河, 撲被同君聽夜過。 休怪畏途輕遠涉, 如今平地盡風波。Biệt Tùng Đường Tiêu tiêu đán vũ mãn quan hà, Phác bị đồng quân thính dạ qua. Hưu quái uý đồ khinh viễn thiệp, Như kim bình địa tận phong ba.

Biệt vong đệ lữ phần

別亡弟旅墳 南事幾時定, 旅墳今更為。 一杯類芳草, 雙淚落斜暉。 諸侄憑誰託, 孤蹤與眾違。 閩江移棹處, 寒雨夜霏霏。Biệt vong đệ lữ phần Nam sự kỷ thì định, Lữ phần kim cánh vi. Nhất bôi loại phương thảo, Song lệ lạc tà huy. Chư điệt bằng thuỳ thác, Cô tung dữ chúng vi. Mân giang di trạo xứ, Hàn vũ dạ phi phi.Dịch nghĩa Việc trong Nam biết bao giờ xong? Mồ chôn nơi đất khách nay lại càng thêm hiu quạnh Rưới một chén rượu vào đám cỏ thơm trên mồ Hai hàng nước mắt lã chã rơi dưới bóng chiều tà Các cháu (con của em) biết gửi nhờ ai Một mình lẻ loi ra đi khác với mọi người Đêm nay từ chỗ sông Mân dời thuyền Trời lạnh mưa lất phất suốt đêm

Bình Hoà phùng đồng quận Hà Lang

別平和逢同郡何郎 望盡天南戰血腥, 十年馬首夢梅庭。 那知旦雨蠻煙地, 尚有江湖老客星。Bình Hoà phùng đồng quận Hà Lang Vọng tận thiên Nam chiến huyết tinh, Thập niên mã thủ mộng mai đình, Na tri đán vũ, man yên địa, Thượng hữu giang hồ lão khách tinh.

Châu Giang dạ bạc

朱江夜泊 朱水秋風夜泊船, 白沙古渡樹籠煙 吟翁去盡新徒散, 獨臥寒江月滿天。Châu Giang dạ bạc Châu thuỷ thu phong dạ bạc thuyền, Bạch sa cổ độ thụ lung yên. Ngâm ông khứ tận, tân đồ tán, Ðộc ngoạ hàn giang nguyệt mãn thiên.

Dã hoa

野花 野花生竹下, 竹深花亦繁。 花繁翻笑竹, 春至不能言。Dã hoa Dã hoa sinh trúc hạ, Trúc thâm hoa diệc phồn. Hoa phồn phiên tiếu trúc: Xuân chí bất năng ngôn.

Đăng Vĩnh Long thành lâu

登永隆城樓 雨霽汀洲集晚禽, 一聲畫角半樓陰。 天燒城郭週遭在, 多難親朋契闊深。 去國杜陵餘別淚, 異鄉王粲負歸心。 昔賢可是俱懷土, 蓬鬢西風幾度侵。Đăng Vĩnh Long thành lâu Vũ tễ đinh châu tập vãn cầm, Nhất thanh hoạ giốc bán lâu âm. Thiên thiêu thành quách chu tao tại, Đa nạn thân bằng khế khoát thâm. Khứ quốc Đỗ Lăng dư biệt lệ, Dị hương Vương Xán phụ quy tâm. Tích hiền khả thị câu hoài thổ, Bồng mấn tây phong kỷ độ xâm.

Đinh Mão tân tuế tác

丁卯新歲作 一臥龍江渚, 年華五度春。 漸看兒女大, 斗覺鬢毛新。 官以遲藏拙, 身相儉補貧。 故鄉戎馬在, 骨肉正悲辛。Đinh Mão tân tuế tác Nhất ngoạ Long Giang chử, Niên hoa ngũ độ xuân. Tiệm khan nhi nữ đại, Đấu giác mấn mao tân. Quan dĩ trì tàng chuyết, Thân tương kiệm bổ bần. Cố hương nhung mã tại, Cốt nhục chính bi tân.Dịch nghĩa Nằm ở bãi Long Giang Đã trải qua năm năm rồi Nhìn lại đoàn con trai con gái đã khôn lớn lên dần Bỗng thấy mái tóc mình đã đổi sắc mới Làm quan vì chậm thăng nên giấu được vụng về Nhà nghèo giữ được tiết kiệm để đỡ túng thiếu Ở làng cũ nay đương có giặc giã Bà con cốt nhục đang chịu cảnh tang tóc đắng cay

Độc Tùng Đường “Thu hoài” chi tác nhân thứ kỳ vận

讀松堂秋懷之作因次其韻 海甸西風教旅情, 筆峰殘月徬窗明。 漫相一夕論天古, 無那懷人獨四更。 北伐重山勞轉餉, 南來諸將畏談兵。 吟殘塞上新秋曲, 臥聽蕭蕭簷雨聲。Độc Tùng Đường “Thu hoài” chi tác nhân thứ kỳ vận Hải điện tây phong giáo lữ tình, Bút Phong tàn nguyệt bạng song minh. Mạn tương nhất tịch luân thiên cổ, Vô na hoài nhân độc tứ canh. Bắc phạt trùng sơn lao chuyển hướng, Nam lai chư tướng uý đàm binh. Ngâm tàn tái thượng tân thu khúc, Ngoạ thính tiêu tiêu thiếm vũ thanh.

Hàm Thuận cảm hoài

Hàm Thuận cảm hoài Cô đĩnh phát Long Châu, Phong yên bạng tiểu lâu. Trường niên thương viễn biệt, Đa nạn tích yêm lưu. Địa trách y sơn chuyển, Thiên không nhập hải lưu. Đồ Nam tri hữu lộ, Nan tá Đẩu sà phù.Dịch nghĩa Từ Vĩnh Long chèo thuyền con ra đi, Cứ noi theo ngọn khói lửa của vòm canh ở ngoài biển. Lâu năm xa cách nhà, lấy làm thương nhớ, Nhưng tiếc vì gặp nhiều hoạn nạn, phải lưu ở đây lâu. Đất chật hẹp chạy quanh theo núi, Trời mênh mông lẫn lộn với bể. Tính đường vào Nam, tôi muốn mưu đồ việc lớn, Nhưng mà khó mượn được cái bè nổi đi lên sao Đẩu.

Kết lư

結廬 病客怯幽尋, 結廬依茂林。 時常聞鳥語, 無處不花深。 掃榻邀僧臥, 開樽待月臨。 所欣同學子, 相過亦抽簪。Kết lư Bệnh khách khiếp u tầm, Kết lư y mậu lâm. Thời thường văn điểu ngữ, Vô xứ bất hoa thâm. Tảo tháp yêu tăng ngoạ, Khai tôn đãi nguyệt lâm. Sở hân đồng học tử, Tương quá diệc trừu trâm.

Khách địa tư gia

Óng óng nhạn kêu thu, Trời xanh lẫn một màu. Nước non nhìn cảnh lạ, Cây cỏ chạnh lòng sầu. Một gánh đồ thư đó, Ngàn trùng xứ sở đâu? Chữ nhàn ai bán rẻ, Trăm lượng cũng nên câu.

Khánh Hoà đạo trung

慶和道中 銅柱摧殘十六朝, 天衣古塔倚層霄。 山盤香樹鐘秀氣, 海拍懸崖泄怒潮。 一路松篁驕虎豹, 數家煙火集漁樵。 占還遺跡空回首, 雲裏梯田擢黍苖。Khánh Hoà đạo trung Đồng trụ tồi tàn thập lục triều, Thiên Y cổ tháp ỷ tằng tiêu. Sơn bàn hương thụ chung tú khí, Hải phách huyền nhai tiết nộ triều. Nhất lộ tùng hoàng kiêu hổ báo, Sổ gia yên hoả tập ngư tiều. Chiêm Hoàn di tích không hồi thủ, Vân lý thê điền trạc thử miêu.

Khấp Nguyễn Duy

泣阮惟 西風飄大樹, 一敵曖轅門。 滿地埋雄略, 三軍泣舊恩。 途跡空衣葬, 那知浩氣存。 年年虛塚上, 遺老類芳樽。Khấp Nguyễn Duy Tây phong phiêu đại thụ, Nhất địch ế viên môn. Mãn địa mai hùng lược, Tam quân khấp cựu ân Ðồ tích không y táng, Na tri hạo khí tồn. Niên niên hư trủng thượng, Di lão loại phương tôn.Dịch nghĩa Một đêm gió tây thổi mạnh, Cây đại thụ ngã che cửa đồn. Đất chôn vùi người anh hùng có mưu lược, Ba quân than khóc vì nhớ ơn đức của ông xưa. Luống tiếc chỉ nhận được dấu áo, thu hài cốt về mai táng, Hay đâu chí khí lớn lao hãy còn. Hàng năm trên chỗ mộ phần cũ, Các bạn già sống sót rưới rượu lên mấy ngọn cỏ thơm.

Ký hữu

寄友 疲士何門可拽裾, 醉鄉隨地著吾廬。 偶緣鷗社推同調, 因得鄰翁為卜居。 亂草不栽先繞舍, 落花才掃更侵除。 窮郊歲宴能相訪, 柳岸斜陽聽讀書。Ký hữu Bì sĩ hà môn khả duệ cư, Tuý hương tuỳ địa trước ngô lư. Ngẫu duyên âu xã suy đồng điệu, Nhân đắc lân ông vị bốc cư. Loạn thảo bất tài tiên nhiễu xá, Lạc hoa tài tảo cánh xâm trừ. Cùng giao tuế yến năng tương phỏng, Liễu ngạn tà dương thính độc thư.
Trên đây là những bài thơ hay của Nguyễn Thông mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ với bạn. Thông qua bài thơ này ta có thể cảm nhận được hồn thơ của ông. Bởi ông không chỉ là một nhà thơ, mà còn là nhà văn hóa, một người yêu nước, yêu dân tha thiết. Và cũng có thể nói rằng thơ của Nguyễn Thông đều chứa đựng những tình cảm sâu sắc của nhà thơ cũng như góc nhìn thế sự. Đừng quên đón đọc những bài thơ hay nhất của nhà thơ Nguyễn Thông này bạn nhé!