Bùi Huy Bích 裴輝璧 (1744-1802) tự Hy Chương, hiệu Tồn Am. Đây là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam quê ở huyện Thanh Trì, thị trấn Sơn Nam nay thuộc Hà Nội. Năm 1769 ông đỗ Hoàng giáp và làm đến chức quan tham tụng ở Phủ chúa Trịnh.Các sáng tác của ông khá đặc sắc, trong đó ông cũng chú tâm phản ánh các vấn đề khía cạnh của đời sống như nạn đói, thuế khóa, binh dịch. Chẳng hạn như “Bích Câu thi tập”, “Nghệ An thi tập”, “Thoái Hiên thi tập”. Bên cạnh đó ông cũng viết nhiều bài tả cảnh thiên nhiên – nơi ông làm quan hoặc ở quê nhà.Vào thời Tây Sơn ông đã viết cuốn “Lữ trung tạp thuyết” (1789) đó là những ghi chép tản mạn về những suy nghĩ về triết học, văn học, lịch sử.. và nhìn chung nó giống như một cuốn tùy bút. Bên cạnh đó ông còn soạn thảo bộ “Hoàng Việt thi tuyển” gồm phú, ký, minh, văn tế…

Bạch liên trì thượng tiểu trai ngoạ bệnh dạ khởi đối hoa tác

Phiên âm

Tứ niên liêu tộ ngụ kinh hoa Bạc cấu thư trai nhất thuỷ nha Thanh dạ thính trùng kiêm thính vũ Bệnh thân ưu quốc hựu ưu gia Đỗ quyên chi ngoại huỳnh quang tiểu Hoàn vĩ đê biên trúc diểu tà Thời hữu phương hương lai kỷ tịch Bất tri toạ ngoạ bạch liên hoa

Dịch nghĩa

Bốn năm hãy tạm trọ ở kinh đô, Dựng qua loa một căn nhà đọc sách bên bờ hồ. Đêm thanh nghe tiếng dế và tiếng mưa, Người ốm lo việc nước lại việc nhà. Ngoài cành đỗ quyên lửa đóm lập loè, Bên bờ cây lau, ngọn trúc nghiêng ngả. Thỉnh thoảng mùi thơm thoảng đưa bên chiếu, Nào ngờ mình đang ngự trên vùng hoa sen trắng.

Bệnh trung

Độc yểm hàn phi nhập mộng sơ Y hy vãng sự cánh hà như Bi hào dã tấn tam niên hậu Ký bạc Đông dương thập tải dư Lộc bất đãi thân thương hối vãn Công vô bổ thế quý tài sơ Giác lai chỉ tự doanh ôn bão Cưỡng duệ vi khu học bạ thư

Bính Ngọ tuế xuân chính nguyệt sơ nhất nhật hậu tự kinh để gia hương tác

丙午歲春正月初一日後自京抵家鄉作

繡楣新帖遞門開, 亦插花標撤石灰。 天上化機更歲月, 地中生氣動根荄。 週年作苦堪行樂, 懶我逢春欲放懷。 祗念去秋民食歉, 席前把盞重低徊。

Phiên âm

Tú mi tân thiếp đệ môn khai, Diệc sáp hoa tiêu triệt thạch hôi. Thiên thượng hoá cơ canh tuế nguyệt, Địa trung sinh khí động căn cai. Chu niên tác khổ kham hành nhạc, Lãn ngã phùng xuân dục phóng hoài. Chi niệm khứ thu dân thực khiểm, Tịch tiền bả trản trọng đê hồi.

Dịch nghĩa

Nhà cửa trang hoàng, thiếp mới đề chữ, cổng mở đón xuân Cũng dựng cây nêu, cũng rắc vôi Trên trời hoá cơ chuyển vần năm tháng Dưới đất sinh khí lay động nụ mầm Quanh năm vất vả cũng nên vui chơi Ta lười, gặp ngày xuân cũng muốn lòng thư thái Chỉ có điều nghĩ đến người dân thiếu ăn từ mùa thu năm ngoái Trước mâm cỗ, nâng chén lên lại thấy ngậm ngùi

Dạ toạ thính đỗ quyên

Phiên âm

Bán khải thư quynh vũ hậu thiên, Nhất huề chủng cúc nhất bồn liên. Tú uyên dao định hồ trung nguyệt, La diệp trù sơ thụ diểu yên. Cách tệ bất năng tỳ quốc chủ, Khởi suy hà dĩ kế ngô tiên. Thứ đồ khuynh trắc môn phong bạc, Độc toạ nghiêm canh thính đỗ quyên.

Dịch nghĩa

Sau trận mưa, mở hé cửa phòng sách, Một bồn trồng cúc, một chậu trồng sen. Ánh mặt trăng long lanh dưới đáy hồ Tú Uyên, Khói ngọn cây nhặt thưa trên thành đất Đại La. Không thể giúp nhà vua thay đổi tệ tục, Lấy gì nối gia tiên chống đỡ vận suy. Đường đời trắc trở, cảnh nhà đơn bạc, Đêm vắng, ngồi nghe tiếng đỗ quyên.

Đề Cổ Mễ sơn tự lâu chung (Võ Giàng huyện)

Lâu đầu ỷ tỉ đối dao cung Ân ước yên thôn nhất vọng thông Sơn thế tung hoành vân ảnh hạ Tùng thanh dao duệ nguyệt minh trung Thụ già hành kính hoa hàm vũ Tăng diễn chân kinh đạt hưởng phong Du khách ngẫu phùng thanh thưởng xứ Hoài nhân bất tại hựu thuỳ đồng

Đề Hải thượng thư quận công từ ốc

題海尚書郡公祠屋

文武全才薀出倫, 曾於史館絕名臣。 未言死後長如在, 昴星生前已自神。 一副胸襟橫宇宙, 十年琴劍定風塵。 何哉亦戴仪冠者, 自運僅僅尋行人。

Phiên âm

Văn vũ toàn tài uẩn xuất luân, Tằng ư sử quán tuyệt danh thần. Vị ngôn tử hậu trường như tại, Mão tinh sinh tiền dĩ tự thần. Nhất phó hung khâm hoành vũ trụ, Thập niên cầm kiếm định phong trần. Hà tai diệc đới nghi quan giả, Tự vận cẩn cẩn tầm hành nhân.

Dịch nghĩa

Ông là người văn vũ toàn tài, kinh luân kiệt xuất, Nơi sử quán lưu dấu danh thần có được mấy người. Chứ chưa nói sau khi chết rồi mà hương hồn còn mãi, Lúc sinh thời đã có tài năng tựa như thần. Một lần vung tay áo tung hoành vũ trụ, Mười năm cầm kiếm định thế phong trần. Vì sao cũng có người mang đai mũ như ông, Lại chỉ lựa theo thời vận tìm người phò tá.

Đinh Mùi xuân nhật thư

Thu xuân đại tự khứ hoàn lai Tiết vật đưng bàn tửu nhất bôi Vãn tục vi năng liêu phục nhĩ Tu danh bất lạo dĩ yên tai Loạn dư cải mấn nhiêu thành tuyết Bệnh lý vong tâm lược tự khôi Chỉ hạnh gia viên phương chủng tại Di lan tùng cúc quả sơ mai

Đông vãn dạ hứng

Hồng trào tuý khách vựng song tai Chiến khước hàn phong thích thích lai Đăng hạ ám kỳ tân sự nghiệp Chẫm biên đốn vượng cựu tình hoài Tích thiềm nùng lộ hoàn thành vận Bạng xế mịnh trùng dục khải hoàn Bất mị khởi tòng đình thượng lập Nguyệt trung đào lý mãn viên khai

Giai đồng môn sinh hạ tiễn Quế Đường tướng công hiệp trấn Thuận Hoá

Miếu đường kinh vị tá thần thông Dư hoạch nhung trù triệu Mẫn công Oán tế hoành mô quy đặc giản Tuần truyền trọng ký nhi hoàn công Cổn y bố đức viên hồng tập Kim lộ tuyên uy hải thuyền không Chỉ nhật chư chiêm toàn oan bí Trùng bồi đẩu toạ ấp xuân phong

Hoan Châu đạo thượng

Sổ thiên lịch lịch độ giao quynh Lộ thán thôn đề bất nhẫn thinh Tuế cửu hạn hoang dân cơ biểu Sơn đa côn phỉ khách lưu đình Tệ triền lao lạc dư không tứ Hạ ấp lưu di thiểu kiến đinh Chỉ hạnh cam lâm tuỳ xứ túc Hữu thu thượng ký thử phương sinh

Khê kiều tế nguyệt

Y y giáng chử hiện quỳnh lâu Quảng quảng vô cùng ý tượng u Trúc điểu đan phù vân ngoại ảnh Quế hoa khai mãn kính Trung thu Thôn chiền viễn cận thiên như hoạ Tinh đẩu đê ngang thuỷ tự lưu An đắc sái nhiên vô tức lự Nguyệt minh thanh dạ nhất biên chu

Lập xuân hậu nhị nhật hộ vương thượng giá ngự Tây Hồ hành cung tác

Nhất vọng bình hồ cảm lãng thâm Xuân lai thời hận xứng đăng lâm Hoà xuy ngạn liễu trừu tân diệp Noạn trước điền ương tháp tế châm Tinh phái ảnh giao ngư phố võng Loan linh hưởng gián chỉ gia châm Nhất hoằng vân thuỷ thiên nhiên kính Ưu tá ngô vuơng chiếu cổ câm

Mộ xuân thôn xá đối hoa ức kinh trung huynh đệ

暮春村舍對花憶京中兄弟

村舍對花思弟兄, 藍江江上雨初晴。 南風不及相思遠, 先逐春雲到鳳城。

Phiên âm

Thôn xá đối hoa tư đệ huynh, Lam Giang giang thượng vũ sơ tình. Nam phong bất cập tương tư viễn, Tiên trục xuân vân đáo phụng thành.

Dịch nghĩa

Nơi thôn xá trước hoa nhớ anh em Trên sông ở Lam Giang mưa vừa tạnh Gió nam chẳng bay xa bằng nỗi nhớ của ta Trước hết hãy lùa áng mây xuân đến kinh thành

Nhâm Dần tuế đán

Phiên âm

Ngũ tuế bão chiêm biên địa cảnh, Kinh niên hỉ cận quốc thành xuân. Nhị Hà yên thuỷ dao tình thụ, Cấm ngự hương phong động nhuyến trần. Cửu bệ miện lưu nguyên bất viễn, Nhất viên hoa trúc hựu tương thân. Chỉ tàm nhiếp lý hào vô bổ, Diệc xỉ thiên gia pháp tụng thần.

Dịch nghĩa

Năm năm qua đã chán cảnh ở biên thuỳ, Năm nay mừng được trông thấy mùa xuân ở kinh thành. Trên mặt sông Nhị, nước bốc hơi long lanh bóng cây, Làn gió cung vua, gió đưa hương rung động lớp bụi. Áo xiêm chín bệ không phải đâu xa, Hoa trúc một vườn trông rất thân mật, Chỉ thẹn mình không bổ ích gì cho quốc chính, Mà cũng được kể là chức tụng thần của nhà vua.

Quá Thân công Nhân Trung cố lý

Hành hành ngẫu đáo Thân công lý Sơn thuỷ thương mang tịch chiếu trung Nê thổ phiên tường dư túc vũ Lê sừ thôn ổ khiếm văn phong Tao Đàn phó uý danh nhưng tại Lễ bộ Thượng thư miếu dĩ không Trù trướng Thân gia nhất lão tẩu Chỉ tri viễn tổ huý Nhân Trung

Quang Liệt xã giang thượng ngâm

光烈社江上吟光

升龍城外此村墟, 纔蚷吾鄉一里餘。 蘇瀝清流隨稻隴, 荔枝佳樹帶茅廬。 田原磊落多成趣, 風物安閒稱卜居。 況慕文貞芳蹟在, 他年老我賦歸與。

Phiên âm

Thăng Long thành ngoại thử thôn khư, Tài cự ngô hương nhất lý dư. Tô Lịch thanh lưu tuỳ đạo lũng, Lệ chi giai thụ đới mao lư. Điền nguyên lỗi lạc đa thành thú, Phong vật an nhàn xứng bốc cư. Huống mộ Văn Trinh phương tích tại, Tha niên lão ngã phú quy dư.

Dịch nghĩa

Thôn xóm này nằm ở ngoài thành Thăng Long Cách thôn ta hơn một dặm đường Dòng sông Tô Lịch trong xanh uốn theo các vạt ruộng Cây vải tươi tốt bao quanh những nếp nhà tranh Ruộng vườn đất bãi chen nhau trông thật thuý vị Phong vật thanh nhàn yên ổn xứng đáng chọn làm nơi ở Huống lại càng ngưỡng mộ hơn, vì dấu thơm của Văn Trinh ngày trước Những năm tới đây về già ta cũng muốn làm vài phú “về đi thôi”

Quyền giám Sơn Tây hương thí dữ giám khảo viện đồng niên Nguyễn Phục Am canh hoạ

Do lai triều điển trọng hiền vi Đỗ tuyệt thiên khê chỉ nhất phi Khởi ngã thâm ngu năng tác ác Nãi nhân đa xảo ái vi phi Mỗi tàm tài bạc nan thăng nhậm Duy tượng tâm thành bất thiết ky Tạc dạ ngưỡng thiên chiêm Bắc Đẩu Hữu như thử ý phó Hành Ky

Sài Sơn tự

柴山寺

錦繡群峰簇岸回, 參差樹石雍樓臺。 仙橋日月東西現, 天市雲霞表暮開。 景統碑銓明峒窟, 正和詩刻鎮崔嵬。 有僧道行禪庵在, 託化頭生妄矣哉

Phiên âm

Cẩm tú quần phong thốc ngạn hồi Sâm si thụ thạch ủng lâu đài Tiên kiều nhật nguyệt đông tây hiện Thiên thị vân hà biểu mộ khai Cảnh Thống bi thuyên minh động quật Chính Hoà thi khắc trấn thôi ngôi Hữu tăng Đạo Hạnh thiền am tại Thác hoá đầu sinh vọng hĩ tai

Thôn trang hàn dạ nhiên sơn mộc dĩ tự ôn nhân tác (Khánh Tân thôn)

Phong nguyệt thê lương nhất tiểu trai Kê thành viễn viễn động cơ hoài Hộ hoà giã ngoại thuỳ xuy bối Tịch vụ sùng biên tự nhiệt sài Thiên đạo tư cung thuỷ bất định Nhân sinh như miện nhậm an bài Sơ dung bệnh tẩu tri hà dụng Đãn mộ sừ qua thử vi giai

Thu dạ

Tầm mục lưỡng đô manh Chi ly độ thử sinh Dân gian phường khổ lạc Quốc nội vi hưu binh Dạ vũ vi vi trích Ám trùng thiết thiết minh Liệu tri thiên dục thự Lân đôi hữu thung thanh
Trên đây là những bài thơ nổi tiếng nhất của nhà thơ Bùi Huy Bích mà chúng tôi giới thiệu với bạn. Đa phần các tác phẩm này đều đã được dịch nghĩa nên nó sẽ không khó khăn cho bạn trong việc tiếp nhận. Và cũng đừng quên theo dõi những bài viết tiếp theo Chùm thơ Bùi Huy Bích phần 2 bạn nhé!