Cao Bá Nhạ xuất thân tại một vùng quê nghèo tỉnh bắc ninh, nay thuộc ngoại thành hà nội. Ông được biết đến với tài làm thơ bằng chữ hán và chữ nôm. Ông sở hữu nhiều tác phẩm ấn tượng được độc giả mến mộ. Sau đây, các bạn hãy cùng uct.edu.vn tìm hiểu về Cao Bá Nhạ cũng như những tác phẩm kiệt xuất của ông nhé!

I. Vài Nét Về Cao Bá Nhạ

Cao Bá Nhạ (?-?) người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông là con Cao Bá Đạt và là cháu Cao Bá Quát. Hiện chưa biết Cao Bá Nhạ có đỗ đạt và làm quan không, chỉ biết ông là người giỏi việc văn chương. Năm 1855, sau khi cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do chú ruột của ông là Cao Bá Quát lãnh đạo thất bại, dòng họ Cao chịu hình phạt tru di tam tộc, thì ông phải cải dạng đổi tên chạy trốn khắp nơi. Cuối cùng, ông ẩn cư ở vùng Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) và kiếm sống bằng nghề dạy học. Ở đây, ông lấy vợ sinh con, nhưng chỉ sống yên ấm được khoảng tám năm thì bị tố giác. Ông bị bắt và bị giải qua các nhà lao ở Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh. Trong ngục, Cao Bá Nhạ viết một bài biểu trần tình (Trần tình văn) và một khúc ngâm (Tự tình khúc) trình lên nhà cầm quyền để tự minh oan cho mình, nhưng vẫn bị triều đình Huế đày lên mạn ngược (không tài liệu nào ghi địa danh cụ thể) và rồi chết ở đấy.Hiện chỉ mới tìm thấy hai tác phẩm của Cao Bá Nhạ, đó là: – Trần tình văn hay còn gọi là Cao Bá Nhạ trần tình trạng. Đây là một bài biểu bằng chữ Hán, theo lối tứ lục. – Tự tình khúc được viết bằng chữ Nôm theo lối song thất lục bát dài 608 câu.

II. Những Bài Thơ Ấn Tượng Của Cao Bá Nhạ

Cao Bá Nhạ có những bài thơ rất hay kể về quá trình của cuộc đời mình. Hãy cùng nhau chia sẻ và theo dõi bài viết này nhé!

Mở Đầu

Tỉnh giấc mộng ngâm câu ký vãng Trải tám thu ngày tháng như thoa Chiếc thân tựa gối quan hà Nỗi niềm tâm sự trăng già thấu chăng? 5. Thơ cao ẩn tay đằng nên tập Bức linh đài bút rập vào tranh Bâng khuâng mình tiếc cho mình Xa xa nói với xanh xanh giãi lòngNguồn: Đông Dương tạp chí, các số ngày 16-1, 23-1, 30-1, 6-2, 13-2, 20-2-1916

Giới Thiệu Gia Thế

Ngòi Đức thuỷ khơi dòng kinh sử 10. Phả Cao Dương treo chữ tấn thân Dõi đời khoa bảng xuất thân Trăm năm lấy chữ thanh cần làm bia Đèn Mông Chính canh khuya một ngọn Màn Trọng Thư năm trọn nửa vây 15. Chim hồng mong chắp cánh mây Năm xe kinh sử, một tay vẽ vời Lửa Thái Ất, đêm soi Lưu Hướng Cầu Thăng Tiên, ngày tưởng Tràng Khanh Gót chân coi nhẹ vân trình 20. Văn chương giốc túi, công danh giật cờ Nền thế nghiệp đã nhờ gia ấm Miền hoạn đồ lại lắm thiên ân Trước sau trải mấy mươi lần Môn phong vẫn giữ trung cần dám sai 25. Ngẫm tiên phụ nửa đời khổ tiết Để mai sau một ít vi danh Hoạn giai nhỏ mọn đã đành Trong vòng Thú, Lịnh, phẩm bình còn khen Dấu trung ẩn in miền mây trắng 30. Chữ mục dân bóng dựng non vàng Bức tranh treo chữ tuần lương Ngư Dương hát lúa, Hà Dương vịnh đào Giá cầm hạc so vào Triệu Biện Thư phụng hoàng đưa đến Mao Khanh 35. Móc mưa ơn đội thánh minh Thanh minh hai chữ góp danh với đờiNguồn: Đông Dương tạp chí, các số ngày 16-1, 23-1, 30-1, 6-2, 13-2, 20-2-1916

Gia Biến Và Lánh Nạn

Vườn Lý Bạch chưa vui đào mận Nhà Tử Văn nổi trận phong ba Thương ôi hảo sự tiêu ma 40. Tấm lòng băng tuyết phút hoà trần ai Mảnh bạch ngọc thiêu người khách tử Lưỡi đoản đao cắt chữ phù sinh Nhân gian ai kẻ thương tình Trăm năm công luận phẩm bình về sau 45. Nỗi gia thất mặc dầu tạo hoá Đàn nhi tôn gửi cả nhân gian Ơn sâu dám quản thân tàn Còn mong gò cáo hồn oan lại về Bình dẫu phá còn lề cốt cách 50. Gương dù tan vẫn sạch trần ai Thương thay một khóm hàn mai Hai cành ấm lạnh ra hai tấm lòng Giấc vinh nhục, sinh không một thoảng Bia thị phi, để tạc còn dài 55. Thế gian kẻ khóc người cười Muôn đời để sạch, muôn đời để dơ Cuộc phù thế thờ ơ mịnh bạc Chốn dạ đài chếch mác tấm son Quyết minh há tưởng đến con 60. Tưởng khuôn phúc thiện ngẫm còn về sau Phó ngạch tích mặc dầu sinh tử Chắc Lý đình dạy chữ hiếu trung Cho nên lòng cũng đành lòng Dẫu khi biến cố còn trong cương thường 65. Mối tâm sự để gương non nước Mảnh huyết tình giãi trước thần minh Cầu kia ai gọi “Tận tình” Chiếc bia “Truỵ lệ” rành rành bên sông Đạo con lấy hiếu trung làm trọng 70. … thường xem mỏng xem khinh Phù sinh một sợi tơ mành Giữ gìn di thể như hình thiên kim Nhạn sa nước, nổi chìm bể khổ Yến e cung, tìm đỗ cây lành 75. Đường ngang những sợ chông chênh Khăng khăng quyết giữ tấm thành như sơn Áo Bạch Chữ dầu cơn mưa nắng Khăn Ô Luân đội nặng gió sương Cành mai chếch mác càng thương 80. Câu thơ tang tử giữa đường càng đau Ngàn non Thái một mầu mây bạc Giạt chân bèo, lưu lạc bể oan Gập ghềnh từng bước gian nan Một vùng khách địa muôn vàn thương tâm 85. Lòng hiếu dưỡng trăm năm đã lỡ Lời di danh hai chữ còn mang Trong khi biến, chẳng khác thường Đến điều cùng quá, lại càng kiên trinh Thu nước mắt gia tình biếng cạn 90. Thấm mồ hôi vận hạn lâu qua Tràng đình ngảnh lại xa xa Khỏi cầu “chiết liễu” ai là cố nhân Ghê chân bước phong trần mới trải Nặng lòng ơn sơn hải chưa đành 95. Nước mây mình biết cho mình Giời dành tuế nguyệt, đất dành điền viên Thú thôn ổ, ao nghiên, ruộng chữ Mầu giang sơn, cơm sử, áo kinh Pha hoà hai chữ trọc thanh 100. Đổi mùi lữ khách, thay hình hàn nho Người mếnh cảnh, giang hồ nên thú Cảnh yêu người, tân chủ phải duyên Lần hồi trong tám, chín niên Gối nhàn tạm chợp, mối phiền tạm khuây 105. Vườn riêng, lấy cỏ cây làm bạn Năm dài, xem yến nhạn bay qua Song hồ ngày tháng lân la Một hai hoàng quyển, năm ba tiểu đồng Tráp Vĩnh Thúc, tay phong, tay mở 110. Tập Thiếu Lăng, câu lựa, câu ngâm Thờ ơ thân thế phù trầm Khi dong trước gió, khi nằm dưới trăng Khuôn tạo hoá dẫu rằng phong sắc Nợ phù sinh phó mặc bi hoan 115. Thôn cư riêng thú bàn hoàn Đem thanh giải trọc, đem nhàn giải ưu Túi Tư Mã giở câu thánh phú Vườn Đào Am quyền chủ thần hoa Mấy phen điểm xuyết yên hà 120. Cúc mươi lăm khóm, mai và bốn cây Giấc thanh dạ, cơn say, cơn tỉnh Ngày lưu niên, khi lạnh, khi nồng Phần du nẻo Bắc ngừng trông Nước non cách mấy mươi trùng xa xa 125. Câu lữ cảm, lệ hoà nét mực Chữ gia tình, thấm tắt lòng son Mắt trông, Vương Xán đã mòn Tay đề, Hướng Tú vuỗn còn ngẩn ngơ Tình ly biệt thờ ơ gấp lại 130. Mối ưu sầu gỡ mãi chưa xong Lối oan trót mấy năm ròng Ngày mong chữ Gấm, đêm mong chiếu Vàng E đất khách, lỡ đường la võng Khép cửa sài, dám lỏng gót chân 135. Bao nhiêu những sự xa gần Hư không phó mặc bụi trần bay đi Chữ nghĩa lý, lòng ghi, dạ tạc Điều thị phi, mắt nhác, tai che Cô trung quyết giữ lời thề 140. Để hồn di thể đi về cho an Nước Châu Thuỷ đầy tràn buổi sáng Mây Na Sơn bảng lảng ban chiều Có ai qua lối Hoạn Kiều Cho nhờ gửi nhắn ít nhiều bi ai 145. Tình kiều tử hôm mai đằng đẵng Hồn quan sơn mưa nắng dầu dầu Xa trông, tầm tã giọt châu Gần trông, phải gượng mối sầu, ngậm cay Gối vò võ đèn khuây đêm vắn 150. Cửa lơ thơ rèm chắn ngày thâu Cảm hoài, khi lựa mấy câu Nghêu ngao đồng tử tiêu sầu năm ba Đuôi con mắt châu sa thấm giấy Đầu ngón tay máu chảy pha son 155. Người đau phong cảnh cũng buồn Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai Mối tâm sự rối mười phần thảm Gánh gia tình nặng tám năm dư Khi ngày mong bức xá thư 160. Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng Hương thề nguyện khói nồng trước gió Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời Tờ oan kể hết bao lời Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng 165. Ngẫm đời trước vốn không oan trái Sao kiếp này vướng mãi gian truân? Lo xa, thôi lại nghĩ gần Thôi ngơ ngẩn sớm, lại trần trọc khuya Ngơ ngẩn nhẽ, đường kia, nỗi nọ 170. Ngao ngán thay, phận nhỏ sầu to Một mình riêng những đắn đo Thường tình nhi nữ khôn dò sâu nông Thôi, dĩ vãng, đã không kéo lại Còn, tương lai, liệu phải đền bồi 175. Hoạ may cảm động đến giời Lấy thân mà trả nợ đời cho thân Dẫu đầy kiếp phong trần dám sá Giãi được lòng khuyển mã là vinh Một là mở tấm đan thành 180. Hai là rửa tiếng nguyệt bình chê bai Để tiên tổ ngậm cười chín suối May gia khương còn nối về sau Hay ra, lại rạng cơ cừu Hèn ra, sơn thuỷ tiêu sầu cũng khoan 185. Cho nên nỗi gian nan sá kể Liệu rồi ra tìm thế gỡ dần Thôn trang tìm thú ân cần Một phần thê tử, hai phần thoả hoaNguồn: Đông Dương tạp chí, các số ngày 16-1, 23-1, 30-1, 6-2, 13-2, 20-2-1916

Thuật Việc Bị Bắt

Tưởng khuây khoả ngày qua tháng tới 190. Bỗng hãi hùng gió thổi mưa chan Nổi chìm, chìm nổi bể oan Mấy năm hầu cạn một hơi lại đầy Nặng kiếp trước vò giầy chi mãi Ngẫm tình này oan trái sao cân 195. Nghĩ thân mà ngán cho thân Một thân mang nợ mấy lần chưa thôi Chữ bạc mịnh, ai ơi xót với Câu đa gian, giòi hỡi thấu chăng? Gớm thay! Ngọn lửa đốt rừng 200. Giập tàn tàn, lại bừng bừng bỗng không Ghê cho kẻ mọc lông trong bụng Đặt nên điều vẽ bóng ngoài môi Ngựa hươu thay đổi như chơi Đấu gươm ngoài lưỡi, thọc giùi trong tay 205. Gây ra sự: chia cây, rụng lá Để cho ai: chim cá, giạt bèo Năm ba kẻ thước người hèo Ngõ Nhan lôi cái “đan biều đập tan Gà eo óc vừa tàn giấc mộng 210. Nhặng vo ve sực động hồn kinh Tiểu đồng thổn thức chung quanh Thê nhi lăn lóc bên mình khóc than Phút nửa khắc muôn ngàn thê thảm Trong một mình bảy tám biệt ly 215. Ngảnh vào ái ngại thê nhi Ngảnh ra án cũ cầm thi ngại ngần Lay ngọn cúc gió dằn lăn lóc Thấm cành mai sương khóc chan hoà Trông hoa đau đớn cùng hoa 220. Ai ngờ từ đấy hoá ra vô tình Áo xốc xếch nửa manh chắp nối Tóc loăn soăn trăm mối bòng bong Sầu dài chia nửa vào song Bước ra dùng dắng lại trông trở vào 225. Hồn khuê phụ lao đao lặng ngắt Người hương lân quanh quất thương thay Bèo mây lỡ bước từ đây Nước non tiễn khách là ngày hai nhăm Đau đớn nỗi, kẻ thăm người hỏi 230. Ngẩn ngơ buồn, miệng nói chân đưa Giọt phiền lai láng như mưa Rượu nồng chẳng nhắp say sưa những sầu Bẻ cành liễu ngâm câu ly hợp Khuất ngàn dâu qua lớp đoản tràng 235. Bức sầu ai vẽ giữa đàng Mây in sắc lúa nửa vàng nửa xanh Sương thấm lối, gập ghềnh từng bước Gió lần cành, xao xác tai nghe Đoái trong cầu quán so le 240. Cỏ ngăn lối ngõ, cây che mái nhà Mòn con mắt nẻo xa đằng đẵng Chồn bước chân dặm thẳng ngùi ngùi Sông quanh chín khúc mấy hồi Con đường man mát mười thôi nhọc nhằn 245. Cầu Ô Mễ mấy lần mây lại Ngàn Hương Sơn một dải núi đưa Lối này lạc bước từ xưa Ai ngờ thơ thẩn bây giờ lại đây Bóng thấp thoáng yến bay buổi tối 250. Tiếng man thưa quyên gọi dặm trường Những là sợ gió e sương Thương thân chua xót, nghĩ đường xa xôi Chuông cổ tự điểm hồi rộn giục Trống quan thành vừa lúc sưu không 255. Sầu kia ai kể xiết lòng Chiều thôi lại tối, đêm xong lại ngày Gông ba thước đã bày lên nợ Cũi một gian khéo giở ra trò Mới qua là kẻ văn nho 260. Bỗng thay đổi dạng từ đồ bởi đâu Tấm tức nỗi, ngậm sầu nuốt giận Thổn thức thay, thở vắn than dài Đến nay mới rõ thói đời Giả tình trước mặt, dối nhời sau lưng 265. Trận gió thổi, vang lừng trống giục Lối bụi mù, chen chúc quân ran Tấm vai quẩy nặng người oan Gần xa trăm miệng đồn vang phố phường Bên năn nỉ người thương người hỏi 270. Ngoài xôn xao, kẻ nói, kẻ cười: Phong tao ra dạng con người Dịu dàng nét mặt ra loài văn nhân Nỡ đầy đoạ phong trần nặng kiếp Để tơ vương oan nghiệt lạ đời 275. Đã đầy một đoá hoa mai Phẩm tiên lưu lạc trần ai lạ lùng Nhờ nhựt nguyệt soi trong can phế Xin giang sơn giãi vẽ tâm trường Nặng lòng trân trọng lời thương 280. Thương nhau lá khách qua đường biết sao Qua cửu mạch cao cao cửa đỏ Trông lục nhai lồ lộ gác vàng Những quen xó xỉnh điền trang Hãi hùng nghi vệ công đường viển vông 285. Mặt bảo kính soi lòng ky lữ Đuốc linh tê thấu chữ kỳ oan Bức tranh vẽ bước gian nan Thanh thiên, bạch nhựt niềm đan giãi trình Nay phó xuống Đông Thành tạm trú 290. Mai truyền sang Bắc Lộ đuổi ra Thân sao như gánh hàng hoa Sớm qua chợ sớm, chiều qua chợ chiều Người đất khách phó liều mưa nắng Thuyền sông mê chở nặng biệt ly 295. Tràng đê một dải xanh rì Nước trôi đỏ thắm, mây đi trắng ngần Hồn phần tử mười phân lưu lạc Cõi phong ba mấy bước nổi chìm Sóng đào kêu mãi không im 300. Giọt sương rả rích hầu êm lại tràn Dâu cao thấp, qua ngàn bến Ái Cây mau thưa, ngảnh lại huyện Gia Thương tâm, này nước non nhà Cảnh còn như cũ, người đà khác xưa 305. Đường lần lút, gió đưa, mây rước Cõi phong trần, mây ngược, nước xuôi Sông sầu một gốc chia đôi Lối sầu trăm dặm một thôi đoản tràng Ô chênh chếch xế ngang non bạc 310. Sếu xa xa bay lạc ngàn xanh Giang sơm thêm nặng ly tình Giang thành vừa sớm, sơn thành lại hôm Giời hầu tối hơi lam giục giã Mây kéo cơn tầm tã sa mưa 315. Ơn trên thấm thía cho chưa? Ơn giời trước đã mau thưa đượm nhuần Ví đầy kiếp phong trần cho bõ Cũng xét tình oan khổ mới nao Dẫu rằng đất thấp giời cao 320. Người còn trăm miệng lẽ nào một thân Nghe Hiến Chỉ truyền ran lịnh tiến: Giục tinh sương đối diện công đình Thực hư may được rành rành Mười tay, mười mắt, phân minh giữa trờiNguồn: Đông Dương tạp chí, các số ngày 16-1, 23-1, 30-1, 6-2, 13-2, 20-2-1916

Tâm Sự Trong Ngục

325. Việc yêu quái, tăm hơi mù mịt Điều oan vu, xương thịt báo đền Lạc đàn trong bấy nhiêu niên Nào ngờ thất giáo cho nên luỵ mình Loài đồng khí đã đành nặng nợ 330. Lòng bỉnh di sao nỡ bỏ hoài Ngón tay còn có vắn dài Huống chi lành dữ lòng người khác nhau Sóng bình địa, trước sau trùng điệp Gió phi tai đơn kép giầy vò 335. Càng ngày hoạn nạn càng to Cha con cùng một chuyến đò bể oan Một chiếc bóng giang san giải tỏ Bấy nhiêu lâu thôn ổ ân cần Nhỡ nhàng đến bước gian truân 340. Dẫu là hiền trí khôn phần nài sao Lánh cho khỏi tanh tao là quý Giữ được điều liêm sỉ là hay Lòng kia: đen, trắng, gian, ngay Gió giăng bầu bạn lâu nay biết lòng 345. Đã chắc hẳn đứng không thẹn bóng Nào tưởng đâu lá bỗng ngược cành Chắc rằng gắn bó đan thành Chút thân chẳng bợn hôi tanh mảy mày Sao đến nỗi tai bay, vạ lạc 350. Thà bỏ thân đáy nước, cành cây Thân sao? Thân đến thế này! Mấy năm giữ sạch một ngày bụi dơ Ơn tiên thế bao giờ báo đáp Nợ phù sinh mấy kiếp đền bồi 355. Phù sinh thôi thế thì thôi Dẫu thân chuộc lại cũng đời bỏ đi Sao gia vận biến di đến thế! Nào tiên nhân tích luỹ để đâu? Cao cao xanh ngắt một mầu 360. Biết rằng có thấu nguyên đầu cho chăng? Chữ khổ tiết khăng khăng cầm chắc Nợ đa truân dằng dặc cố theo Trước sau vẫn chút bấy nhiêu Nặng vì cốt nhục phải liều phát phu 365. Tình phụ tử cay chua đến ruột Nỗi thất gia đau buốt tận xương Từ nay nhắn nhru thế thường Ai ơi, xin chớ ngâm chương “mộng hùng” Hồn nghĩa lý chơi dong mây bạc 370. Lệ văn chương sái lạc suối vàng Mai sau còn kẻ tình thương Vài thiên ai cảm, mấy chương phẩm bình Luống tích thiện, sao không phùng thiện Chưa minh oan, lại đến hàm oan! 375. Băng hồ rơi xuống lầm than Thà cho một chén tân toan đi đời Khi lên xuống Tam Thai, Bích Lạc Lúc đi về Ngũ Nhạc, Huyền Đô Thoảng không trăm giận nghìn lo 380. Trải chân bến Khổ, qua đò sông Mê Còn vướng nỗi đề huề nhiều ít Nỡ liều thân vĩnh quyết sao đành Tiên phần còn gửi mây xanh Xót thân lưu lạc phù bình bấy lâu 385. Nợ Đại Tạo mai sau khoan thải Chút hiếu trung may lại báo đền Cho nên ngậm tủi nuốt phiền Cắn răng cố nhịn muôn nghìn thương tâm Nhà Huyên bấy nhiêu năm lưu lạc 390. Chân bèo trôi một bước một đau Hoặc là thấu đến cao sâu Tấm lòng tấc cỏ mai sau còn dành Lại còn nỗi gia đình tự tục Đau đớn lòng cố, phục, cù, lao 395. Phúc xưa mòn mỏi thế nào? Chút dòng thanh bạch nỡ nào mất không? Lại đau đớn khuê phòng gối lẻ Bỗng vì đâu chia rẽ mối tơ Liễu bồ đôi chút cành thơ 400. Bao giờ bìu dín, bao giờ bồng mang Đã cay đắng nhiều đường rộn rã Lại nhục nhằn đến cả vợ con Mấy năm chút nghĩa ôn tồn Gieo đào, trả mận, lòng còn bâng khuâng 405. Đường kia nọ, nửa chừng bề bộn Nỗi trước sau, trăm món ngổn ngang Mắt kia, thác cũng còn gương Hồn kia, muốn dứt còn vương nỗi này Đành tiền kiếp chịu đầy lầm cát 410. Mong tái sinh nhờ hạt móc mưa Phúc nhà còn mảnh sợi tơ Hoạ may báo đáp còn chờ về sau Thân nghĩ lại: cùng sầu đã chán Số xui ra: vận nạn khôn đành 415. Ví liều quyết chẳng tiếc mình Sạch mình đã vậy, thế tình còn nghi Khuôn tạo hoá dẫu nguy còn phúc Tấm linh đài khỏi nhục là vinh Bo bo hãy gắng lấy mình 420. Bấy lâu gìn giữ sao đành liều đi Xin tạo hoá phù trì chớ bỏ Để thế gian xem rõ kẻo lầm Đen nào dơ được đan thầm Sầu nào ngăn được cao ngâm dõi ngày 425. Gần mùa hạ chim bay đuổi thỏ Rắp đầu thu ngọn gió cuốn mây Lọt then ngày tháng hơi may Đồng hồ thánh thót vơi đầy năm canh Nam Cai khuất non xanh man mát 430. Thái Hàng xa mây bạc lần vần Hồn bay ngàn dặm cũng gần Trong năm mươi khắc năm tần thấy cha Chợp, sực thức, la đà gối bị Nằm, lại ngồi, rầu rĩ chiếu manh 435. Hoá công khéo giữ nhàn tình Đem người yên thuỷ, bó vành lao lung Đem lần đục rẩy trong băng tuyết Rắc bụi trần điểm vết khuê chương Then mau khoá kín một đường 440. Hổ thân loan hạc ra tuồng chó dê Chiếc ngựa trắng đi về góc bể Đàn chó xanh lẻ tẻ bên trời Một mình với bóng là hai Rèm buông mỏng mảnh, song cài so le 445. Mòn con mắt đi về Hương Lĩnh Ngỏ tấm lòng với mảnh phù vân Phù vân bay lại cho gần Gửi về Hương Lĩnh ân cần mấy câu Ngồi tựa gối giãi sầu với gió 450. Mới đâu chừng đêm nọ tới nay Hơi may heo hắt từ tây Giang Nam phong vị độ này ra sao? Năn nỉ với hai sao bến Hán Giải tràng giang trời hạn đông tây 455. Hai sao soi biết nạn này Xin cho thất tịch cùng ngày đoàn viên Vừng trăng trước về miền vân thuỷ Soi những người thiên lý tương tư Đi qua vườn cũ lơ thơ 460. Thử xem án cũ cầm thư thế nào? Trông đàn yến bay cao phấp phới Sịch then song, gọi với trước mành Tiện đây nhờ gửi chữ tình Chờ xuân nhắn gửi chim xanh còn chầy 465. Tình nam bắc, thâu ngày qua tháng Sầu biệt ly, vơi sáng đầy chiều Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều Cậy ai về nẻo “Thước kiều” hỏi tin Quanh mao quật, gió hiên, trăng mái 470. Giải tình giang, rượu sớm, thơ chiều Nào thơ, nào rượu, dập dìu Trông trăng, tựa gió, đìu hiu một mình Những say tỉnh Bắc kinh mưa gió Vẫn mơ màng phòng cũ chiếu chăn 475. Gối sầu cách áng mây Tần Băn khoăn tay áo, chân quần ở đây Án nọ nưng ngang mày sớm tối Nay tháng ngày no đói với ai Gió thu một tiếng bên tai 480. “Thuần lư” sực nhớ đến mùi Giang Nam Kìa ngọn núi in làm bút giá Nọ đám mây trang điểm chữ tình Bút xưa trang điểm chữ tình Bình thi cuốn gửi Hồ Đình bấy lâu 485. Tưởng thư viện những sầu cách diễn Nghĩ hoa viên càng ngán xa xôi Giếng vàng một tiếng thu rơi Quan sơn nghìn dặm mấy hồi tương tư Rắp mượn cá đem thư thăm hỏi 490. Thoắt nghe chim tựa gối ngẩn ngơ Trông hoa luống nặng tình xưa Tiếc hoa luống ngại nắng mưa giãi giầu Dễ khuây khoả trăm sầu ngàn giận Những sụt sùi thở ngắn than dài 495. Biệt ly ai kể xiết lời Vì hoa cách mặt cho người thương tâm Người đưa rượu hỏi thăm Bành Trạch Kẻ say trăng tìm khách Đào Chu Nào ai trang điểm mầu thu 500. Hoa vàng, chén bạc, tạc thù với ai? Miền Dữu Lĩnh tin mai gắn bó Đỉnh Cô Sơn mối gió đợi chờ Muốn mang chén rượu câu thơ Lạnh lùng trong tuyết, hững hờ dưới trăng 505. Chồi “tiểu mạch” vừa chừng hơn trước Tay chủ nhân ngày trước vun trồng Dẫu khi sương tuyết lạnh lùng Xa xôi dám phụ tấm lòng kiên trinh Mây vô định bay quanh ngoài mái 510. Trăng hữu tình soi lại trước sân Non đông tin tức cách ngần Tường vi rầy đã bấy lần khai hoa Nhắn hỏi tiễn xuân là mấy khóm Vẻ tiên hồng trang điểm nhường nao? 515. Lầu trang gió bỡn, trăng chào Kim thoa đưa nhớ, tiễn đau, cắt buồn Vườn thược dược thâu mòn cửa trúc Rẫy ba tiêu chen chúc song hồ Biệt ly vắng ngắt cảnh thu 520. Thanh cư ai vẽ nên đồ “Võng Xuyên” Nhắn hỏi đến mộc liên hai ngọn? Phóng tin hoa gần gặn gió may Hoa kia hãy nhắn thu này Buổi thu còn vắng người say trước đình 525. Tiếng tất suất bên mình giục giã Ngọn trà mi trước giá lơ thơ Buổi thu chớ ngại công chờ Con ong, cái kiến ỡm ờ giới thay Nhờ tin gió hỏi cây thạch lựu 530. Thu hầu sang hạ cửu gần qua Đan tâm còn chút gọi là Giữ gìn băng ngọc đừng pha bụi trần Đường hoa trải mùi xuân lác đác Cánh loan tiên bay lạc lối ngoài 535. Với ai khoe tía khoe tươi? Chậu vàng ngần ngại những người nghiên sương Tưởng sơn trúc thạch sương đã ngán Hỏi hồ đào long nhãn càng đau Hồng mai rả rích giọt châu 540. Hững hờ sương tảo, giãi giầu sương cam Góp trăm mối đem làm tâm sự Tính trăm hoa đầy cả gió sương Chập chờn say tỉnh giữa đường Hoa kia có biết đoạn trường này chăng? 545. Nỗi ly hận nói năng sao xiết Tình tương tư nào biết bao nhiêu Tính xem ly biệt ít nhiều Thương cho mai cúc nặng điều tương tư Nhờ trận gió gửi thư thăm hỏi 550. Mượn bóng trăng giãi nói ân cần Giá đành phong nguyệt chủ nhân Nỡ nào đầy đoạ phong trần xót thương Xin hoa chứa phong quang như cũ Chủ nhân còn đoàn tụ có khi 555. Trả cho sạch nợ lưu ly Tân toan rửa hết đến kỳ cam lai Gửi tình trọng thay lời thương nhớ Cậy đồng tâm lo đỡ ít nhiều Có khi lau chuốt “đan biều” 560. Khi trưa phơi sách, khi chiều tưới cây Lúc thanh hạ đặt bày giá bút Buổi rồi dài lâu chuốt án thơ Dưới đèn giở thước, xe tơ Sửa sang áo rét đợi chờ thu qua 565. Tình khuê các gần xa lắm nỗi Người quan sơn sớm tối một mình Trông về trời bể mông mênh Lúc đi còn vướng mối tình tư quy Ngàn Nam Mẫu vừa khi canh tác 570. Dải Tây Giang ngọn nước đầy vơi Dưới trăng thuyền trúc thảnh thơi Phong lưu năm ngoái là người năm nayNguồn: Đông Dương tạp chí, các số ngày 16-1, 23-1, 30-1, 6-2, 13-2, 20-2-1916

Kết Thúc

Xếp tình cũ từ đây trở lại Hoài công đâu kể mãi việc nhàn 575. Đã đành hội, biệt, bi, hoan Mặc khuôn tạo hoá tuần hoàn nghĩ chi Chữ thông, tắc, phải tuỳ sở ngộ Lẽ thị, phi, không hổ với đời Chiếc thân đứng giữa cõi người 580. Trên trời: nhật nguyệt, dưới trời: sơn xuyên Chứa trong bụng đầy thiên kinh sử Đội trên đầu nặng chữ quân thân Bầu băng, giá ngọc, trắng ngần Dẫu dầm giọt nước phong trần chẳng hoen 585. Lối kim cổ là miền liêm sỉ Bi thị phi còn để nhục vinh Mắt tai hiền truyện, thánh kinh Lẽ đâu cầm độc ô danh quan thường Nhờ tạo hoá rộng đường phúc trạch 590. Giăng thiên la vét sạch hung ngoan Một phen cười với thế gian Rồi ra “tuỳ ngộ nhi an” xin đành Hãy đem món thường tình xếp lại Tạm tính điều thế trái để ra 595. Đêm đêm lạy hỏi trời già Thân này ô trọc hay là thanh cao? Còn tiên thế ít nhiều dư phúc Chắc linh đài chín khúc đan tâm Hoá cơ vãng phục chẳng lầm 600. Để cho tác thiện lục trầm lẽ đâu? Thu nước mắt nghĩ câu “thận độc” Rong ngọn đèn ngâm khúc “mạc ai” Bút nghiên tiêu khiển ngày dài Chẳng vì tân khổ bỏ hoài quang âm 605. Nhân thong thả lại ngâm quốc ngữ Đem thuỷ chung tình tự nói năng Nôm na câu được câu chăng Đỡ khi buồn bã lại dâng một cườiNguồn: Đông Dương tạp chí, các số ngày 16-1, 23-1, 30-1, 6-2, 13-2, 20-2-1916
Trên đây, uct.edu.vn đã cung cấp cho các bạn những thông tin cũng như tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Cao Bá Nhạ. Hy vọng sẽ giúp ích được cho các bạn. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!  
Bài Nhiều Lượt Xem  Nhà thơ Nguyễn Ngọc Hưng cùng tập thơ Gọi Trăng phần đầu