Những tập thơ dịch của luôn được quý độc giả đón nhận và yêu thích. Qua đó ngòi bút của ông được bộc lộ rõ nét khiến người ta phải trầm trồ ngưỡng mộ khả năng và vốn hiểu biết ngôn ngữ xuất sắc của nhà thơ. Không chỉ vang danh với những bài thơ giàu tình cảm và ý nghĩa cao cả những bài thơ dịch của nhà thơ Tomas Tranströmer được nhiều bạn đọc quan tâm. Cùng đón xem những thi phẩm còn lại trong trang thơ này nhé!

Thuộc về đêm Nocturne

Jag kör genom en by om natten, husen stiger fram i strålkastarskenet – de är vakna, de vill dricka. Hus, lador, skyltar, herrelösa fordon – det är nu de ikläder sig livet. Människorna sover: en del kan sova fridfullt, andra har spända anletsdrag som om de låg i hård träning för evigheten. De vågar inte släppa allt fast deras sömn är tung. De vilar som fällda bommar när mysteriet drar förbi. Utanför går vägen länge mellan skogens träd. Och träden träden tigande i endräkt med varann. De har en teatralisk färg som finns i eldsken. Vad deras löv är tydliga! De följer mig ända hem. Jag ligger och ska somna, jag ser okända bilder och tecken klottrade sig själva bakom ögonlocken på mörkrets vägg. I springan mellan vakenhet och dröm försöker ett stort brev tränga sig in förgäves.Dịch Đi qua làng ban đêm – bỗng nhà cửa hiện ra trong ánh đèn pha – chúng bừng thức dậy và khát nước Những ngôi nhà, lẫm lúa, biển tín hiệu, xe không chủ: bây giờ Cuộc Sống của chúng mới trở thành xun xoe Người ta ngủ: một số thanh bình, một số nét mặt căng lên có vẻ họ mệt nhọc tập tành đi vào vĩnh cửu Họ ngủ say nhưng không dám buông lỏng cái gì Và yên nghỉ, như mọi cổng chắn đều khép lại khi một điều huyền bí đi qua Phía sau làng, con đường tiến dài giữa vô số cây rừng. Cây đều đồng tình im lặng Chúng có cái vẻ biểu diễn trên sân khấu như người ta thường trông thấy qua các ngọn lửa Ôi các lá cây có mặt đúng lúc làm sao! Chúng đi theo tôi cùng về nhà Tôi nằm và thiu thiu ngủ, mơ thấy nhiều tượng hình và nhiều tín hiệu không quen biết Chúng tự ghi khắc vào sau mi mắt của tôi trên bức tường đêm Một phong bì to thử luồn vào khe kẽ giữa giấc mơ và sự tỉnh dậy, không lọt vào đó được

Tình cảm Espresso

Det svarta kaffet på uteseveringen med stolar och bord granna som insekter.Det är dyrbara uppfångade droppar fyllda med samma styrka som Ja och Nej.Det bärs fram ur dunkla kaféer och ser in i solen utan att blinka.I dagsljuset ett punkt av välgörande svart som snabbt flyter ut i en blek gäst.Det liknar droppar av svart djupsinne som ibland fångas upp av själen,som ger en välgörande stöt: Gå! Inspiration att öppna ögonen.Dịch Cà phê đen phụ vụ trên sân thượng Có ghế có bàn ân cần duyên dáng Các giọt nước quý giá trong những ly trong đều có quyền uy như một Có một Không Người ta lấy rượu ra từ đáy hầm sâu hàng quán không nháy mắt nó chằm chằm nhìn mặt trời sán lạn Trong ánh ngày, một chấm đen thầm ban ơn đến rất nhanh với một tân khách nhợt nhạt lan dồn Hắn rất nhớ những giọt nước sáng suốt tối đen trí óc y từng ngoạm chất men Các giọt rượu đã cho chúng ta một cái hích cứu nạn: hãy đến đó! Một sự khích lệ làm chúng ta mở mắt để trông thấy rõ

Trầm tư phẫn nộ

En storm för kvarnens vingar att vilt gå runt i nattens mörker, malande intet.- Du hålls vaken utav samma lagar. Gråhajens buk är din svaga lampa. Diffusa minnen sjunker till havsens djup och stelnar där till främmande stoder. – Grön av alger är din krycka. Den som vandrar till havs vänder styvnad åter.Dịch Bão táp giận dỗi quay các cánh cối xay gió trong đêm đen xay cái hư không Đó là những quy luật làm cho anh mất ngủ Cái bụng của con cá mập xám là ngọn đèn mờ của anh Những ký ức lộn xộn rơi xuống đáy đại dương để tại đó đông lại thành những bức tượng kỳ lạ Các tảo biển đã làm xanh lại cái nạng chống của anh Những người lên đường ra khơi có thể đôi khi trở lại trong tâm trạng bàng hoàng

Trên châu thổ sông Nin I Nildeltat

Unga frun grät rätt ner i sin mat på hotellet efter en dag i staden där hon såg de sjuka som kröp och låg och barn som måste dö för nöds skull. Hon och mannen gick upp på sitt rum där man stänkt vatten för att binda all smuts. De gick i var sin säng utan många ord. Hon föll i en tung sömn. Han låg vaken. Ute i mörkret rann ett stort larm förbi. Sorl, tramp, rop, vagnar, sång. Det gick i nöd. Det höll aldrig upp. Och han somnade in krökt i ett nej. Det kom en dröm. Han var på en sjöresa. I det grå vattnet uppstod en rörelse och en röst sa: “Det finns en som är god. Det finns en som kan se allt utan att hata”Dịch Người vợ trẻ khóc ngay trên đĩa đồ ăn khách sạn sau nửa ngày đi viếng thăm châu thành chị gặp các người ốm bò trên đất kêu than những đứa trẻ sắp qua đời vì khổ hạnh Chị đi với chồng lên phòng nghỉ trước đó người ta đã phun nước rửa sạch nền Mỗi người ngả lưng mỗi giường và không trò chuyện Chị ngủ một giấc say. Còn anh vẫn thao thức Bên ngoài, trong bóng đêm, những tiếng ồn lan rộng Tiếng ầm ào, tiếng chân bước, tiếng kêu, tiếng xe, tiếng hát Cái ấy trong cơn hoảng loạn. Cái ấy không ngừng Đoạn nó dịu đi, xếp vào một sự chối-từ khó hiểu Một giấc mơ lại đến. Anh du hành trên biển Nước màu xám sôi nổi lên một tiếng ai đó nói với anh: “Có một người nào đấy tốt Người ấy biết nhìn mọi thứ cũng chẳng bao giờ căm ghét chúng ta”

Trích nhật ký du lịch Châu Phi

På den kongolesiske hötorgsmålarens tavlor Rör sig gestalterna tunna som insekter, berövade sin människokraft. Det är den svåra passagen mellan två sätt att leva. Den som är framme har en lång väg att gå. En ung man fann utlänningen som gått vilse bland hyddorna. Han visste inte om han ville ha honom som vän eller som föremål för utpressning .Tveksamheten gjorde honom upprörd. De skildes i förvirring. Europeerna håller sig annars kring bilen som vore den Mamma. Cikadorna är starka som rakapparater. Bilen kör hem Snart kommer det sköna mörkret som tar hand om smutskläderna. Sov. Den som är framme har en lång väg att gå. Det kanske hjälper med ett flyttfågelsträck av handskakningar. Det kanske hjälper att släppa ut sanningen ur böckerna. Det är nödvändigt att gå vidare. Studenten läser i natten, läser och läser för att bli fri. Och efter examen förvandlas till ett trappsteg för näste man. En svår passage. Den som är framme har en lång väg att gå.Dịch Trên tranh một hoạ sĩ Công-gô rộn ràng bóng dáng thanh tao như những côn trùng bị tước hết sinh lực của con người Một ngách giữa hai cung cách tồn tại Con đường còn dài cho những ai ở xa phía trước kia Người trai trẻ tóm được khách nước ngoài lạc giữa các túp lều Cậu ta không biết sẽ biến người kia thành bạn hay thành một người bị doạ đe để lấy của Sự không nhất quyết làm rối trí cậu Họ ngượng nghịu rời xa nhau Nếu không, những người Châu Âu đứng tụm lại xung quanh chiếc xe con như xung quanh Mẹ họ Tiếng ve kêu cũng sắc như lưỡi dao cạo Và chiếc xe lại lên đường Rồi một đêm dịu dàng đến chăm lo cho các bộ áo quần bẩn Giấc ngủ Con đường còn dài cho những ai ở xa phía trước kia Có thể chúng ta ăn những cái nắm tay mới gom lại của lũ chim di trú Có thể chúng ta làm bật dậy các chân lý của sách vở Rất cần phải đi xa Cậu sinh viên đọc trong đêm, đọc và đọc vì tự do sau cuộc thi, trở thành bậc cầu thang cho người đến sau Một ngách khó vượt Con đường còn xa cho những ai ở phía trước

Trong rừng Genom skogen

En plats som kallas Jakobs kärr är sommardagens källare där ljuset surnar till en dryck som smakar ålderdom och slum. De svaga jättarna står snärjda tätt så ingenting kan falla. Den knäckta björken multnar där i upprätt ställning som en dogm. Från skogens botten stiger jag. Det ljusnar mellan stammarna. Det regnar över mina tak. Jag är en stupränna för intryck. I skogsbrynet är luften ljum. – Stora gran, bortvänd och mörk vars mule gömd i jordens mull dricker skuggan av ett regn.Dịch Góc này gọi: đầm ao Jacob như hầm rượu của ngày mùa nơi ánh trời làm rượu trở chua khẩu vị tuổi cao quả rất hợp Các vị sức yếu, trí rối mù vẫn không có gì làm gục được Cây bạch dương gẫy vì mối mọt vẫn trang nghiêm, như một tấm minh thư Tôi leo lên núi rừng thanh vắng Ánh sáng nảy giữa nhánh cây già Mưa đổ xuống trên các mái nhà Tôi, con người vốn cũng đa cảm Ở bìa rừng, dịu lại khí trời Tùng bách lớn, lá um, tất bật gốc vẫn phủ trong mùn của đất đớp bóng thầm những trận mưa rơi

Tuyết tan ban trưa Dagsmeja

Morgonluften avlämnade sina brev med frimärken som glödde Snön lyste och alla bördor lättade – ett kilo vägde 700 gram inte mer. Solen fanns högt över isen flygande på stället både varm och kall Vinden gick fram sakta som om den sköt en barnvagn framför sig. Familjerna gick ut, de såg öppen himmel för första gången på länge Vi befann oss i första kapitlet av en mycket stark berättelse. Solskenet fastnade på alla pälsmössor som frömjöl på humlorna och solskenet fastnade på namnet V I N T E R och satt kvar där tills vintern var över. Ett stilleben av timmerstockar på snön gjorde mig tankfull. Jag frågade dem: “Följer ni med till min barndom?” De svarade “ja”. Inne bland snåren hördes ett mummel av ord på ett nytt språk: vokalerna var blå himmel och konsonanterna var svarta kvistar och det talade så sakta över snön. Men reaplanen nigande i sitt dåns kjolar fick tystnaden på jorden att växa i styrka.Dịch Không khí buổi sớm gửi các bức thư dán con tem cháy bỏng Tuyết long lanh và các kiện hàng bông dường như nhẹ nhõm – một kilo cân thành 700 gam và không cao hơn nữa Mặt trời rải trên băng, có vẻ đứng im trên đường bay, ấm nóng hơn là lạnh Gió thổi dịu dàng, tưởng như đang đẩy chiếc xe trẻ con Các gia đình đi ra khỏi nhà, thấy trời quang đãng lần đầu tiên sau nhiều thời gian Chúng ta đang mở chương đầu một câu chuyện kỳ lạ Tia nắng mặt trời bám vào chiếc mũ không vành bằng lông thú như đám phấn hoa bám vào các mầm cây và tia nắng mặt trời bám vào cụm từ MÙA ĐÔNG để có mãi mặt ở đó cho đến khi mùa đông chấm dứt Tôi đứng trầm ngâm trước thiên nhiên chết của các phiến gỗ nằm trong tuyết. Tôi hỏi chúng: “Chúng bay có đi theo ta trong tuổi bé không?”. Chúng trả lời: “Có” Trong mớ các cây gai, người ta nghe thủ thỉ những từ của một ngôn ngữ mới mà nguyên âm là màu xanh da trời và phụ âm, vài cành nhánh tí xíu nhẹ nhàng bập bẹ đôi lời dưới ánh tuyết Một chiếc phi cơ được trả lương đã bày tỏ lời chào từ biệt trên các chiếc váy vang như sấm làm cho sự im lặng trở nên thấm sâu hơn

Từ núi cao Från berget

Jag står på berget och ser över fjärden. Båtarna vilar på sommarens yta. ”Vi är sömngångare. Månar på drift.” Så säger de vita seglen. ”Vi smyger genom ett sovande hus. Vi skjuter sakta upp dörrarna. Vi lutar oss mot friheten.” Så säger de vita seglen. En gång såg jag världens viljor segla. De höll samma kurs – en enda flotta. ”Vi är skingrade nu. Ingens följe.” Så säger de vita seglen.Dịch Từ núi cao tôi nhìn vịnh biển Tàu nghỉ ngơi trên nước mùa hè “Ta: ngái ngủ. Trăng: đi chệch đường” Buồm trắng nói thế với riêng tôi “Ta vào nhà thiu thiu ngủ Nhẹ nhàng đưa tay đẩy cửa Chúng ta tựa vào tự do” Buồm trắng nói thế với riêng tôi “Hãy giữ cho ý chí thế gian cùng đi một đường Chỉ có một con tàu Hướng tới mai sau” Buồm trắng nói thế với riêng tôi

Út trưởng C-dur

När han kom ner på gatan efter kärleksmötet virvlade snö i luften. Vintern hade kommit medan de låg hos varann. Natten lyste vit. Han gick fort av glädje. Hela staden sluttade. Förbipasserande leenden – alla log bakom uppfällda kragar. Det var fritt! Och alla frågetecken började sjunga om Guds tillvaro. Så tyckte han. En musik gjorde sig lös och gick i yrande snö med långa steg. Allting på vandring mot ton C. En darrande kompass riktad mot C. En timme ovanför plågorna. Det var lätt! Alla log bakom uppfällda kragar.Dịch Khi anh gặp lại con đường sau cuộc gặp gỡ tình duyên tuyết rơi quay vòng trong gió Vậy là mùa đông đến họ siết chặt ôm nhau Một đêm trắng chói sáng Anh bước mau, bước vui Cả thành phố dường xuôi con đường thoai thoải Những nụ cười trao cho ai cũng vui vẻ mỉm cười sau cổ áo đứng của mình Đó là tự do! Và những dấu hỏi hát ca chào sự có mặt Thượng đế Phải chăng anh nghĩ vậy? Một điệu nhạc thoát lên để đi những bước dài vào với cơn bão tuyết thảy đều quy tụ vào nốt do Một giờ vượt qua sự đau khổ Mọi thế đều thấy dễ Mọi người đều mỉm cười sau cổ áo đứng của mình

Vào sáng sớm Morgon och infart

Havstruten, solskepparen, styr sin väg. Under honom är vattnet. Nu slumrar ännu världen som en mångfärgad sten i vattnet. Outtydda dag. Dagar- som aztekernas skrivtecken!Musiken. Och jag står fångad i dess gobeläng, med höjda armar-lik en figur ur allmogekonsten.Dịch Chim mòng biển mặc áo khoác đen người thuỷ thủ ấy của mặt trời canh giữ đất mũi Dưới nó là biển sóng Thế gian yên giấc ngủ như một tảng đá muôn màu nằm nghỉ ngơi trên mặt nước Một ngày khó giải thích Những ngày giống tựa chữ viết của người A-dơ-tếch! Nhạc nổi lên. Tôi là tù nhân trong hàng rào gỗ cao đôi cánh tay giơ lên – hẳn là một hình tượng của nghệ thuật dân gian

Syros, đảo Hy Lạp Syros

I Syros hamn låg överblivna handelsfartyg i väntan. Stäv vid stäv. Förtöjda sedan flera år: CAPERION, Monrovia KRITON, Andros SCOTIA, PanamaMörka tavlor på vattnet, man har hängt undan dem.Som leksaker från vår barndom som vuxit till jättar och anklagar oss för det vi aldrig blev.XELATROS, Pireus CASSIOPEJA, Monrovia. Havet har läst färdigt dem.Men när vi första gången kom till Syros, det var om natten, vi såg stäv vid stäv vid stäv i månskenet och tänkte: vilken mäktig flotta, lysande förbindelser!Dịch Các tàu hàng bị bỏ quên còn nằm chờ trong cảng Syros Một sống mũi tàu sát bên sống mũi khác. Tàu neo đã nhiều năm CAPERION, Monrovia KRITON, Andros SCOTIA, Panama Những bức tranh thấm đen trong nước, người ta đã tháo móc ra rồi Như các đồ chơi tuổi thơ của chúng ta, từ nay chúng ta đã khôn lớn Chúng tố cáo chúng ta về những gì mãi mãi chúng ta không thể trở thành được XELATROS, Pireus CASSIOPEJA, Monrovia. Đại dương đã kết thúc việc đọc tên chúng ta Khi chúng ta đến Syros lần đầu, trời lại tối các sống mũi tàu nằm sát cái này với cái khác dưới ánh trăng làm chúng ta suy tưởng: đoàn tàu sao mà to lớn, và bao nhiêu nét dáng đều đặn vây ta!

Tháng mười một, ánh phản chiếu của các bộ áo da lông quý tộc

Just det att himlen är så grå får marken själv att börja lysa: ängarna med sitt skygga gröna, den paltbrödsmörka åkerjorden. Det finns en ladas röda vägg. Och det finns marker under vatten som blanka risfält i ett Asien – där stannar måsarna och minns. Disiga tomrum mitt i skogen som klingar sakta mot varann. Inspiration som lever skymd och flyr i skogen som Nils Dacke.Dịch Bởi da trời trở thành màu xám mỏng mà trái đất hoá ánh chói chang các bãi cỏ e thẹn những màu xanh đất cày biến đen như máu đóng Tại đó các tường hồng lẫm lúa đất bị nước lụt phủ đầy như các đám ruộng long lanh Châu Á nơi đây hải âu hạ cánh và đắm say Những hốc sương mù giữa rừng cây che cũng dịch lại gần nhau dịu ngọt Cảm hứng thường sống trong bí mật trốn tít ở rừng con như Nils Dacke
Trên đây, uct.edu.vn đã dành cho bạn trọn bộ những bài thơ dịch của Nguyễn Xuân Sanh cực hấp dẫn và sâu sắc. Một lần nữa nhà thơ đã khẳng định vị thế của mình trên văn đàn Việt Nam. Hãy đồng hành cùng chúng tôi để chia sẻ những bài viết đặc sắc nhất nhé! Xem Thêm:
Bài Nhiều Lượt Xem  Soạn bài: Ôn tập về luận điểm Trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 8