Trong làng thơ ca Việt Nam, được mọi người biết đến là một nhà thơ đa tài. Ngoài là một nhà thơ xuất chúng, ông còn là một nhà dịch giả nổi tiếng được mọi người kính trọng và ngợi ca. Chùm thơ dịch của ông được bạn đọc tìm đến để rồi thán phục trước tài năng trời phú hiếm có của Nguyễn Xuân Sanh. Nếu bạn là một người yêu thơ ca chắc hẳn sẽ không thể bỏ lỡ những tuyệt phẩm giá trị này phải không? Hãy cảm nhận qua bài viết của chúng tôi nhé!

Khúc bi thương Elegi

Vid utgångspunkten. Som en stupad drake i något kärr bland dis och dunster, ligger vårt granskogsklädda kustland. Långt därute: två ångare som ropar ur en dröm i tjockan. Detta är den nedre världen. Orörlig skog, orörlig vattenyta och orkideens hand som sträcks ur myllan. På andra sidan, bortom denna farled men hängande i samma spegling: Skeppet, som molnet tyngdlöst hänger i sin rymd. Och vattnet kring dess stäv är orörligt i stiltje lagt. Och ändå stormar det! och fartygsröken blåser vågrätt ut – där fladdrar solen i dess grepp – och blåsten står hårt mot ansiktet på den som bordar. Att ta sig uppför Dödens babordssida. Ett plötsligt korsdrag och gardinen fladdrar. Tystnaden ringer som en väckarklocka. Ett plötsligt korsdrag och gardinen fladdrar. Tills avlägset en dörr hörs slå igen långt borta i ett annat år. O marker grå som Bockstensmannens kapprock! Och ön som svävar mörk i vattenröken. Det råder stillhet som när radarn svänger sitt varv på varv i övergivenhet. Det finns en korsväg i ett ögonblick. Distansernas musik har sammanströmmat. Allt sammanvuxet till ett girigt träd. Försvunna städer glittrar i dess grenverk. Från överallt och ingenstans det spelar som syrsor i augustimörkret. Insprängt som timmerbaggar, slumrar här i natten torvmossens dräpta färdman. Saven driver hans tanke upp mot stjärnorna. Och djupt i berget: här är flädermössens grotta. Här hänger åren, gärningarna tätt. Här sover de med sammanfällda vingar. En dag skall dessa flyga ut. Ett vimmel! (På avstånd som en rök ur grottans mynning.) Men ännu råder sommarvintersömnen. På avstånd vattensorl. I mörka trädet ett löv som vänder sig. En sommarmorgon fastnar bondens harv i döda ben och klädestrasor. – Han låg alltså kvar när torvmossen dränerats och står nu upp och går sin väg i ljuset. I varje härad virvlar gyllne frön kring gammal skuld. Den pansarklädda skallen i åkerjord. En vandringsman på vägen och berget följer honom med sin blick. I varje härad sorlar skyttens rör vid midnattstid när vingarna slår ut och det förflutna växer i sin störtning och mörkare än hjärtats meteorsten. En andens bortvändhet gör skriften glupsk. En flagga börjar smälla. Vingarna slår ut kring rovet. Denna stolta färd! där albatrossen åldras till ett moln i Tidens gap. Kulturen är en valfångststation, där främlingen på promenad bland vita husgavlar och barn som leker ändå med varje andetag förnimmer den dräpte jättens närvaro. Lätt återkastas himlasfärers orrspel. Musiken, skuldfri i vår skugga, som fontänens vatten stiger mellan vilddjur, konstrikt förstenade kring vattenstrålen. Med stråkarna förklädda till en skog. Med stråkarna som riggen i ett störtregn – kajutan vräks under ett störtregns hovar – och innerst, i kardanupphängning, glädjen. I afton återspeglas världens stiltje, när stråkarna satts an men inte rörs. Orörliga i dimman skogens träd och vattentundran speglande sig själv. Musikens stumma hälft är här, som doften av kåda står kring åskskadade granar. En underjordisk sommar hos var man. Där lösgör sig, vid korsvägen, en skugga och spränger bort i bachtrumpetens riktning. Av nåd ges plötslig tillförsikt. Att lämna sin jagförklädnad kvar på denna strand, där vågen slår och sjunker undan, slår och sjunker undan.Dịch Nơi xuất phát lên đường. Dải bờ của chúng ta phủ rừng thông trải dài, như một con rồng bại trận trong đám than bùn, giữa sa mù và hơi nước. Và ở xa: hai tàu chở hàng gọi chúng ta từ đáy một giấc mơ Giấc mơ được bọc trong sương mờ. Thế gian nơi đây là vậy Rừng cây trơ ì, mặt nước im lìm bàn tay cây lan dơ qua bãi đất bùn Từ phía bên kia, sau đường lạch Vẫn treo lên các dãy ánh ngời: chiếc tàu mây đã mắc nó lên trong không gian không trọng lượng Xung quanh chiếc tàu đắm, nước lặng im như đặt lên chỗ quang trời Tuy bão táp vẫn hoành hành! Khói con tàu thổi chéo về chiều ngang nơi nắng trời uốn cong dưới sự chi phối của nó và gió đập vào mặt những ai muốn cập bờ Trèo lên mạn trái của Sự Chết Một luồng gió cuốn gấp và các màn gợn sóng nhấp nhô Sự im lặng bỗng reo lên như đồng hồ gọi reo sáng sớm Một luồng gió cuốn gấp và các màn gợn sóng nhấp nhô Cho đến khi một cánh cửa đóng sập ở khơi xa Nơi rất xa, trong một năm khác hẳn Ôi những đất đai cũng xám xịt như chiếc áo khoác của Con Người các đầm lầy! Và đảo đen trôi giữa hơi nước biển Tại đó sự im lặng trị vì, giống như khi rađa quay đi và quay lại trong sự từ bỏ ý định của nó Trong mỗi khoảnh khắc đều có một ngã tư Ca khúc của các khoảng cách tìm lại được ở đó Tất cả đều hoà trộn vào một cái cây rậm lá Các thành phố đã qua đời từng lấp lánh trong càn nhánh Ở khắp mọi nơi và không ở nơi đâu Bản nhạc giống như bài lũ dế hát trong đêm tháng tám Mang lấm tấm vết tựa sâu bọ cánh cứng, người lữ hành bị ám sát ngủ đêm trong đám than bùn Nhựa sống làm cho tư tưởng bay lên với tinh tú Sâu trong núi: sào huyệt của dơi Ở đó, đeo thành hàng chặt chẽ các hành động, các tháng năm Cũng ở đó, ngủ các cánh chim xếp gọn Một ngày nào đó, chúng sẽ ra đi. Ôi gió lốc! (Xa xa, khói thoát ra khỏi hốc hang) Nhưng thời nghỉ đông của mùa hè chưa chấm dứt Đâu đây, nghe có tiếng nước rì rào. Cây bị phủ tối một ngọn lá lật quay lưng nó lại Một sớm hè chiếc bừa của nông dân móc gặp xương một người chết, áo quần rách nát Người ấy có mặt tại đây ngày nông dân tát nước đầm lầy và đây anh ta đứng dậy và ra đi đến với ngày lớn Trong mỗi vùng đất, các hạt vàng quay tít xung quanh một tội lỗi cũ. Một chiếc sọ bọc sắt trong đất cày vỡ. Một người đi dạo trên đường và ngọn núi giương mắt nhìn theo dõi anh ta Đầu óc khi đổi hướng thì chữ viết cũng có vẻ phàm ăn Một con bướm đập cánh, đôi cánh mở ra xung quanh một miếng mồi Cuộc hành trình cao quý biết bao nhiêu con hải âu lớn trở nên già đi trong Miệng của Thời gian Văn hoá là một giai đoạn cho những người đi săn cá ông trong đó có người dạo chơi giữa các ngôi nhà sơn trắng và các trò chơi của các cháu trẻ thơ mỗi lần anh cảm nhận là anh thở thấy sự hiện diện của người khổng lồ bị ám sát Mùa sinh sản của các thiên cầu nhẹ nhàng được dội lại Nhạc điệu, trong trắng nơi dáng nét của nó tựa nước nơi suối nước phun giữa lũ vật hoang dã được kết tinh lại một cách đầy thẩm mĩ xung quanh một trò chơi của nước Với các vĩ đàn biến dạng thành rừng Với các vĩ đàn như những dụng cụ thể dục dưới mưa rào một buồng tàu thuỷ dưới gót guốc trận mưa và bên bề sâu, trong phút ngừng con quay hồi chuyển là niềm vui Đêm nay xuất hiện thời kỳ tạm yên của thế giới khi các vĩ đàn được giơ lên, không hề nhúc nhích Yên lặng trong sương mù, cây của rừng cây và lãnh nguyên của nước trong vô vàn óng ánh Phân nửa im lặng của nhạc, giống như hương thơm của nhựa bao bọc các cây thông mà sấm sét đã gây thương tích Một mùa hè trong đáy sâu của mỗi chúng ta Gặp ở đó, đã rã tan một cái bóng Cái bóng đã lao về phía các kèn đồng của nhạc Bach Ơn huệ đã bỗng chốc cho chúng ta một niềm tự tin Để lại bộ áo của cái tôi trên bờ biển này tại đây sóng đã rút lui và tự đập vỡ, đã rút lui và tự đập vỡ

Khúc ca Kyrie

Undertiden slog mit liv øjnene op i mørke. En følelse som om folkemasser drog gennem gaderne i blindhed og uro på vej til et mirakel, mens jeg usynligt bliver stående. Som barnet falder i søvn med angst lyttende til hjertets tunge skridt. Længe, længe til morgenen sætter strålerne i låsen og mørkets døre åbner sig.Dịch Đôi khi, cuộc đời tôi mở mắt vào bóng tối Như thể nhìn đi qua trên các con đường những toán mù quáng và nhộn nhịp tìm cách bước vào một kỳ quan không ai thấy, tôi dừng đứng lại Như khi em bé ngủ, kinh hoàng lắng nghe các bước đi nặng nề của lòng nó Khá lâu, khá lâu, cho đến khi ban mai vứt tia ánh trời vào lỗ các ổ khoá và đến tận khi các cửa của bóng tối được mở toang ra

Khúc nhạc nhanh Allegro

Jag spelar Haydn efter en svart dag och känner en enkel värme i händerna. Tangenterna vill. Milda hammare slår. Klangen är grön, livlig och stilla. Klangen säger att friheten finns och att någon inte ger kejsaren skatt. Jag kör ner händerna i mina haydnfickor och härmar en som ser lugnt på världen. Jag hissar haydnflaggan – det betyder: »Vi ger oss inte. Men vill fred.« Musiken är ett glashus på sluttningen där stenarna flyger, stenarna rullar. Och stenarna rullar tvärs igenom men varje ruta förblir hel.Dịch Tôi chơi nhạc Hây-dơn sau một ngày đen tối cái ấm áp giản đơn sưởi bàn tay nóng hổi Phím đàn đều hoà hợp Âm vang dồn lớp lớp Cung điệu rợp màu xanh rộn rã và tinh anh Phong thái khá hài hoà nói: tự do là thật ta không trả tô đắt cho vua chúa thối tha Tôi đút tay vào túi như nhạc sư Hây-dơn báng nhại sự bê bối những ai nhìn thế giới tươi trong Tôi kéo lên ngọn cờ Hây-dơn thoả thuê mà tưởng tượng: “Ta không chịu đầu hàng Nhưng hoà bình là điều ta muốn” Nhạc là ngôi nhà gương đặt lên trên bờ dốc Ở đó những hòn đá chạy ở đó những hòn đá bay Và những hòn đá chạy băng suốt qua ngôi nhà các cửa làm bằng kính vẫn giữ được y nguyên

Khúc tuỳ hứng Caprichos

Det mørkner i Huelva: sodede palmer og togfløjtets jagende sølvhvide flagermus. Gaderne er fuldeaf mennesker. Og damen der haster i trængslen vejer forsigtigt det sidste dagslys påsineøjnes vægt. Kontorets vinduer åbne. Endnu høres det hvordan hesten tramper derinde. Den gamle hest med stemplernes hove. Først efter midnat bliver gaderne tomme. Der er endelig blåt på alle kontorer. Deroppe i himmelrummet: travende tavst, gnistrende ogsort, uset og ubundet, med rytteren kastet af: et nyt stjernebillede somjeg kalder “Hesten”Dịch Đêm xuống trên Huelva: những cây cọ phủ đầy bồ hóng tiếng còi xe lửa chạy đi xa những con dơi màu lông bạc Các con đường đầy người Quý bà rẽ lớp người đông cân cẩn thận ánh sáng cuối ngày trên bàn cân của con mắt Cửa sổ các bàn giấy đều mở Từ đó người ta còn nghe ngựa dẫm bước chân Con ngựa già có các móng chân dễ húc vặt Chỉ có sau nửa đêm các con đường mới vắng người đi Cuối cùng là lúc các bàn giấy tắt hết đèn Và trên cao kia, khoảng không: phóng trong lặng lẽ, đen và chói sáng không trông thấy được và được giải phóng tự do một khi người cưỡi đã bị ngã nhào: hành tinh mới ấy mà tôi gọi là “Con Ngựa”

Lịch sử những thuỷ thủ Skepparhistoria

Det finns barvinterdagar då havet är släkt med bergstrakter, hukande i grå fjäderskrud, en kort minut blått, långa timmar med vågor som bleka lodjur, fåfängt sökande fäste i strandgruset. En sådan dag går väl vraken ur havet och söker sina redare, bänkade i stadens larm, och drunknade besättningar blåser mot land, tunnare än piprök. (I norr går de riktiga lodjuren, med vässta klor och drömmande ögon. I norr där dagen bor i en gruva både dag och natt. Där den enda överlevande får sitta vid norrskenets ugn och lyssna till de ihjäl frusnas musik.)Dịch Có những ngày mùa đông không tuyết trong đó đại dương là bà con gần gũi với một đất nước miền núi được phủ che bằng các đồ trang sức bằng lông màu xám một khoảnh khắc ngắn màu xanh, nhiều giờ dài với các đợt sóng như các linh miêu xanh xao tìm kiếm vô ích một chỗ dựa trên sỏi bờ biển Các ngày ấy những xác thuyền đắm rời đại dương để đi tìm chủ tàu buôn, đến sống trong tiếng ồn ào thành phố và các đoàn thuỷ thủ vút bay vào đất liền, còn nhẹ thoáng hơn là khói các tẩu thuốc hút Chính tại phương Bắc mới có những con linh miêu thực, móng vuốt mài sắc và cặp mắt mộng mơ Tại phương Bắc, sống tại trong hầm mỏ, ngày cũng như đêm Tại đó, người độc nhất được sống sót có thể ngồi gần bên lò sưởi của bình minh phương Bắc và ngồi nghe khúc ca của những người bạn đã chết cóng từ lâu

Lissabon

I stadsdelen Alfama sjöng de gula spårvagnarna i uppförsbranterna. Där fanns två fängelser. Ett var för tjuvarna. De vinkade genom gallerfönstren. De skrek att de ville bli fotograferade! “Men här”, sa konduktören och fnittrade som en kluven människa “här sitter politiker”. Jag såg fasaden, fasaden, fasaden och högt uppe i ett fönster en man som stod med en kikare för ögonen och såg ut över havet. Tvättkläderna hängde i det blå. Murarna var heta. Flugorna läste mikroskopiska brev. Sex år senare frågade jag en dam från Lissabon: “Är det riktigt, eller har jag drömt det?”Dịch Tàu điện sơn vàng hát trong đường dốc lên Afama Trước có hai nhà tù Một cho bọn ăn trộm Chúng nó lắc lư tay trong song sắt cửa sổ Chúng kêu la muốn được chụp hình! “Nhưng mà ở đây”, người chủ sự nói với tôi cười khẩy chần chừ: “Tù chính trị bị nhốt ở đây” Tôi nhìn phía trước mặt nhà một người tại cửa sổ trên cao đặt ống nhóm lên mắt và ngắm biển Áo quần giặt phơi ngoài trời Tường đều nóng bỏng Ruồi đánh vần từng hàng chữ bé xíu Sáu năm sau tôi hỏi một bà ở Lissabon: “Trước đây là như vậy hoặc tôi đã nằm mơ?”

Lòng cảm phục Hommages

Gick längs den anti poetiska muren. Die Mauer. Inte se över. Den vill omge vårt vuxna liv i rutinstaden, rutinlandskapet. Eluard rörde vid någon knapp och muren öppnade sig och trädgården visade sig. Förr gick jag med mjölkhinken genom skogen. Violetta stammar på alla sidor. Ett gammalt skämt hängde därinne lika vackert som ett votivskepp Sommaren läste ur Pickwickklubben. Det goda livet, en lugn vagn fullsatt med upprörda gentlemän. Slut ögonen, byt hästar. I nöden kommer barnsliga tankar. Vi satt vid sjuksängen och bad om en paus i terrorn, en bräsch där pickwickarna kunde dra in Slut ögonen, byt häst ar Det är lätt att älska fragment som har varit på väg länge. Inskriptioner på kyrkklockor och ordspråk tvärs over helgon och flertusenåriga frön Archilochos! – In get svar Fåglarna strök över havet s ragg. Vi låste oss inne med Simenon och kände lukten av männi s kolivet där följetongerna utmynnar Känn lukten av sanning Det öppna fönstret bar stannat framför trädtopparna här och aftonhimlens avskedsbrev. Shiki, Björling och Ungaretti med livets kritor på dödens tavla. Dikten som ä r fullkomligt mojlig. Jag såg upp då grenarna svängde. Vita måsar åt sva rta körsbär.Dịch Đi theo chiều dài bức tường phản thơ Chớ nhìn lên phía trên Nó tìm cách bao vây các cuộc đời người đã trưởng thành chúng ta trong thành phố bảo thủ, trong cảnh quan bảo thủ Nhà thơ Éluard sờ một nút bấm tường bỗng mở vườn cây hiện ra Ngày xưa tôi băng qua cánh rừng bằng một thùng đựng sữa Cả bốn bên, những thân cây màu tím một hài kịch cũ đã được dựng lên cũng đẹp như một chiếc lư đồ cúng Mùa hạ đọc cho chúng ta nghe những cuộc phiêu lưu ký của Ngài Pickwick Cuộc đời đẹp, một xe ngựa mui gập Chở người hào hoa phong nhã làm ta tức tối Hãy nhắm mắt lại và thay đổi ngựa Các tư tưởng trẻ con nhất đến với chúng ta trong phút giờ nguy khốn Chúng ta ngồi ở đầu giường người ốm và nguyện cầu mỗi khắc được nghỉ ngơi trong cảnh gian nguy một lỗ hở trong đó các truyện của Ngài Pickwick đều có thể bước vào Hãy nhắm mắt lại và thay đổi ngựa Khó lòng thích những mẩu chuyện từng ngao du lâu đời rồi Những ghi khắc trên các chuông nhà thờ những ngạn ngữ quẩn quanh xung quanh các vị thánh và những hạt cũ càng đã bao nhiêu lượt mấy nghìn năm Ôi, Archilochos. Chẳng có câu trả lời nào cả Lũ chim mơn trớn bộ lông phủ ngoài của biển Chúng tôi đi vào nhà với Simenon để mùi hương tồn tại của loài người đã có ngay tại những nơi các mầm lá non nhú ra Hãy hít thở mùi hương của chân lý Cánh cửa sổ mở dừng lại ngay tại chỗ này giáp với các ngọn cây cùng bức thư vĩnh biệt của bầu trời hoàng hôn Shiki, Björling và Ungaretti cuộc đời họ được viết bằng phấn trắng trên bảng đen của cái chết Trường ca ấy, hoàn toàn có thể Tôi nhìn lên không trung khi cành cây rung chuyển Những hải âu trắng ăn quả anh đào đen

Lời bạt Epilog

December. Sverige är ett uppdraget, avtacklat skepp. Mot skymningshimlen står dess master kärvt. Och skymning varar längre än dag – den väg som leder hit är stenig: vid middagstiden först når ljuset fram och vinterns Colosseum reser sig, belyst från overkliga moln. Då stiger med ens den vita röken svindlande från byarna. Oändligt högt står molnen. Vid himmelsträdets rötter bökar havet, förstrött och liksom lyssnande till något. (Osynligt färdas över själens mörka, bortvända hälft en fågel, väckande de sovande med sina rop. Så vrids refraktorn, fångar in en annan tid, och det är sommar: bergen råmar, stinna av ljus och bäcken lyfter solens glitter i genomskinlig hand … Allt sedan borta som när en filmremsa går av i mörkret.) Nu genombränner aftonstjärnan molnet. Träd, gärdsgårdar och hus förstoras, växer i mörkrets ljudlöst störtande lavin. Och under stjärnan framkallas alltmer det andra, dolda landskapet som lever konturers liv på nattens röntgenplåt. En skugga drar sin kälke mellan husen. De väntar. Klockan 18 kommer vinden och spränger fram med dån på bygatan, i mörkret, som en ryttarskara. Hur den svarta oron spelar och förklingar! I orörlighetsdans står husen fångna, i detta brus som liknar drömmens. Vindstöt på vindstöt flackar över viken bort mot öppna sjön som kastar si i mörkret. I rymden flaggar stjärnorna förtvivlat. De tänds och släcks av moln som flyger fram, som bara när de skymmer ljusen röjer sin existens, likt det förflutnas moln som jagar kring i själarna. När jag passerar stallväggen hörs genom dånet den sjuka hästens stamp därinifrån. Och det är uppbrottet i stormen, vid en trasig grind som slår och slår, en lykta som slänger från en hand, ett djur som kacklar förskräckt i berget. Uppbrott när det mullrar som åskan över fähustaken, brummar i telefontrådarna, visslar gällt i tegelpannorna på nattens tak och trädet hjälplöst kastar sina grenar. Det lösgör sig en ton av säckpipor! En ton av säckpipor som tågar fram, befriande. En procession. En skog på marsch! Det forsar kring en stäv och mörkret rör sig, och land och vatten färdas. Och de döda, som har gått under däck, de är med oss, med oss på väg: en sjöresa, en vandring som inte är ett jagande men trygghet. Och världen river ständigt upp sitt tält på nytt. En sommardag tar vinden fatt ekens rigg och slungar Jorden framåt. Näckrosen paddlar med sin dolda simfot i tjärnens mörka famn som är på flykt. Ett flyttblock rullar bort i rymdens hallar. I sommarskymningen ses öar lyfta vid horisonten. Gamla byar är på väg, drar in i skogarna alltlängre på årstidernas hjul med skatans gnissling. När året sparkar av sig stövlarna, och solen klänger högre, lövas träden och fylls av vind och seglar fram i frihet. Vid bergets fot står barrskogsbränningen, men sommarns långa, ljumma dyning kommer, drar genom trädens toppar sakta, vilar ett ögonblick och sjunker åter undan – avlövad kust står kvar. Och slutligen: Guds ande är som Nilen: översvämmar och sjunker i en rytm som har beräknats i texterna från skilda tidevarv. Men Han är också oföränderlig och därför sällan observerad här. Han korsar processionens väg från sidan. Som fartyget passerar genom dimman, utan att dimman märker något. Tystnad. Lanternans svaga ljussken är signalen.Dịch Nước Thuỵ Điển là một tàu thuỷ mà người ta đã kéo lên đất liền, bỏ hết buồm chão Cột buồm ghi gay go nét vẽ lên nền trời chạng vạng Hoàng hôn kéo dài hơn cái ban ngày con đường dẫn đến nó rì rào đầy sỏi :chỉ vào trưa ánh sáng mới đến các kiện hàng mùa đông ưỡn dậy trong ráng mây kỳ quái Bỗng khói từ các làng xóm bay lên trắng toát làm chóng mặt Mây trời cao ngất Gần các đám rễ cây, sóng biển xới cày lơ đãng dường đâu có muốn lắng nghe chẳng biết cái gì (Vô hình, một con chim bay ngang qua trên nửa tối đen và quanh co của tâm hồn và bằng tiếng kêu, nó gọi người ngủ say thức dậy Đoạn cái lăng kính khúc xạ quay quanh trụ đứng tìm cách vớ lấy một thời đại khác và bỗng đã mùa hè: các núi non gào rống, no nê ánh sáng con suối nâng tia nắng mặt trời lên bằng bàn tay trong mờ Nhưng tất cả sẽ mất đi như phim ảnh bị gãy vỡ trong bóng tối) Bây giờ là lúc sao hôm đi vào trong đám mây Cây cối, nhà cửa, cổng rào trở nên phình to mọc lên trong ngọn thác tối tăm, đổ tan hoang trong im lặng Dưới ánh sao, dần dần người ta trông thấy rõ hơn cái phong cảnh giấu kín nó đưa mình đến với các đường biên của tấm phim chụp điện về ban đêm Một bóng đen kéo xe trượt tuyết giữa các dãy nhà Các dãy nhà đang chờ đợi Và gió thổi đến lúc 18 giờ Nó phi ngựa ồn ào trên đường làng trong tranh tối tranh sáng như một tốp kị binh Mong rằng những cảm kích u ám ấy có thể rống to lên trước khi tan biến Đây nhà văn bị cầm tù trong một vũ hội lặng im trong sự inh ỏi như giữa cảnh chiêm bao Một trận gió sau một trận gió khác chạy ngoài bến tàu cho đến lúc triều cường phả sóng vào đêm Trong không gian, tinh tú thắp lên tắt đi khi các đám mây tiến đến và chỉ chứng minh sự tồn tại của chúng khi ánh sáng được lấp che như đám mây của quá khứ rảo bay trên bao tâm hồn Khi tôi đi dọc theo các chuồng ngựa, thấy sét dẫm đạp lên thân một con ngựa đau Và bão táp ra hiệu lên đường sát kề một chắn gỗ đã gãy hư đang đập mạnh kề một đèn lồng lay lắt, kề một con gì đang kinh hồn cục tác trong núi cao Lên đường gầm gừ một thứ gì như mưa rào bão tố trên các chuồng bò khi các dây điện thoại kêu vo vo khi tiếng gió rít chối tai khi cây bối rối vứt rã cành Một tiếng bốc lên từ những kèn bỏ túi! Tiếng kèn bỏ túi nối tiếp nhau, tiếng kèn giải phóng Một đám rước đi qua. Một rừng cây tiến bước! Mọi thứ đều bốc lên từ chiếc tàu bị đắm và bóng tối tăng dần đất đai và nước biển ngao du Những người đã qua đời bị chèn giữ lại, họ có mặt với chúng ta cùng trên đường với chúng ta: một hành trình trên biển cuộc viễn du không bị ngăn cản, lại yên lòng Và vũ trụ không ngừng chuyển trại Một ngày hè, gió chiếm đoạt buồm chão, cây sồi và phóng đất ra đằng trước Vụng trộm, hoa súng chèo với bộ chân có màng của nó trong sức ôm lặng lẽ của một đầm ao đang chạy trốn Cái khối tảng lăn trôi giạt vào các gian buồng của thinh không Vào hoàng hôn mùa hè, người ta thấy các hòn đảo tách rời ra ở chân trời Các ngôi làng cổ đã lên đường, chìm sâu, xa mãi, vào rừng cây trong vòng bánh xe các mùa vụ với tiếng xào xạc của chim ác là Khi với một cái đá, niên đại tháo ủng ra và mặt trời còn leo lên nữa, cây đã phủ đầy lá đã phồng lên tràn gió và bơi thuyền một cách tự do Ở chân núi đá trồi lên làn sóng dồi lại của rừng thông song đợt sóng lừng ấm áp của mùa hè đã báo trước vang nhẹ nhàng lên các ngọn cây nghỉ ngơi trên đó chốc lát, rồi rút lui bấy giờ chỉ còn lại một bờ biển bị vặt lá Hiển nhiên, tinh thần thiêng liêng quả giống dòng sông Nin: dồn lên lũ lụt và cạn thấp xuống theo một nhịp điệu có tính toán trước tuỳ từng thời đại khác nhau trong kinh sách Nhưng Việc Ấy cũng phi thời gian do vậy người ta rất ít khi gặp nó ở đây Nó cắt ngang con đường đi của cuộc diễu hành một cách gián tiếp Như con tàu băng qua sương mù không từng chú ý. Im lặng Ánh mờ của đèn hiệu là thông báo của nó

Lụt hồng thuỷ trên các vùng đất

Regnet hamrar på bilarnas tak. Åska mullrar. Trafiken går saktare. Lyktorna tänds mitt på sommardagen. Röken slår ner i skorstenarna. Allt levande kurar ihop sig, blundar. En rörelse inåt, känn livet starkare. Sjöns yta är spänd. Åskhimlen viskar ner genom näckrosorna till dyn. Skogens fönster öppn nar sig långsamt. Men åskan slår direkt ur stillheten! En dövande skräll. Och sedan tomrum där de sista dropparna dalar. I tystnaden hör han ett svar komma. Bortifrån. En sorts grov barnröst. Det stiger ett råmande från berget. Ett gny av sammanväxta toner. En lång hes trumpet ur ärnåldern. Kanske från inne ihonom själv.Dịch Mưa nện trần xe Bão gầm. Đường cái đánh dấu từng bước một Người ta bật đèn pha lên ngay giữa ngày hè Khói rập xuống lò sưởi Mọi cái gì sống đều tự vùi mình, khép lại Một cử động bên trong xe, cảm thấy cuộc đời gần lại Chiếc xe gần như mù quáng. Nó ngừng thắp ngọn lửa riêng và hút thuốc dọc các cửa kính nước vẫn chảy như suối khe Một lối mòn trong rừng, tách ra uốn ngoằn ngoèo gần cái hồ hoa súng dãy đồi dài mờ đi dưới mưa Trên cao yên nghỉ những chồng đá lưu niệm thời đại đồ sắt, trong khi ở đây đã từng có nhiều cuộc chiến tranh bộ lạc, một Công-gô giá buốt hơn nhiều Nguy biến từng lùa các đàn súc vật và những con người góc gách đầy những tiếng thầm thì yên ổn sau vách đá yên ôtn trong cây ngấy gai và trong hang đỉnh núi Một sườn dốc tối tăm, một kẻ nào đó tiến lên leo vụng về kéo cái khiên trên lưng cũng là điều mà anh nghĩ trong chiếc xe đứng lại Ban ngày hiện lên, anh vặn cửa kính xuống Như tiếng sáo thổi, con chim nói một mình dưới cơn mưa âm thầm dần dần càng mỏng manh Mặt hồ nước dãn ra. Giữa bầy hoa súng trời gió bão nói thầm với bùn đen Rừng hé mở từ từ các cánh cửa Sâms rơi thẳng xuống phút giây tạm lắng Một tiếng rú đanh tai rồi đến khoảng trống không những giọt mưa cuối cùng đặt mình xuống êm ả Anh ta lắng nghe trong lặng im câu trả lời lả tả Từ xa. Như một giọng to của trẻ nhỏ Một tiếng bò rống lên từ dãy đồi Âm vang của những tiếng kêu kết dính Một tiếng còi khan khản thời kỳ đồ sắt Có lẽ cũng từ trong sâu thẳm đáy lòng anh ta

Mặt nhìn mặt

I februari stod levandet still. Fåglarna flög inte gärna och själen skavde mot landskapet så som en båt skaver mot bryggan den ligger förtöjd vid. Träden stod vända med ryggen hitåt. Snödjupet mättes av döda strån. Fotspåren åldrades ute på skaren. Under en presenning tynade språket. En dag kom någonting fram till fönstret. Arbetet stannade av, jag såg upp. Färgerna brann. Allt vände sig om. Marken och jag tog ett språng mot varann.Dịch Tháng hai cuộc sống dường ngừng Chim bay miễn cưỡng với hồn nhân gian Cuộc sống nạo rách cảnh quan Như thuyền cọ đứt neo thang nối bờ Cây quay lưng lại bơ vơ Tuyết dày sớm tối thầm đo cỏ tàn Dấu chân già khọm trên băng Gặp nhau chuyện vãn, úa vàng văn phong! Cái gì đó, đến cửa phòng! Tạm nghỉ công việc, sáng lòng nhìn xa Lại về… màu sắc nở hoa Sung sướng nhảy, đất và ta nhịp nhàng

Một đêm đông

Stormen sätter sin mun till huset och blåser för att få ton. Jag sover oroligt, vänder mig, läser blundande stormens text. Men barnets ögon är stora i mörkret och stormen den gnyr för barnet. Båda tycker om lampor som svänger. Båda är halvvägs mot språket. Stormen har barnsliga händer och vingar. Karavanen skenar mot Lappland. Och huset känner sin stjärnbild av spikar som håIler väggarna samman. Natten är stilla över vårt golv (där alIa förklingade steg vilar som sjunkna löv i en damm) men därute är natten vild! Över världen går en mer allvarlig storm. Den sätter sin mun till vår själ och blåser för att få ton. Vi räds att stormen blåser oss tomma.

Một nghệ sĩ phương Bắc

Jag Edvard Grieg rörde mig som en fri man bland människor. Jag skämtade flitigt, läste aviserna, reste och for. Jag ledde orkestern. Auditoriet med sina lampor darrade av triumf som tågfärjan just när den lägger till. Jag har dragit mig upp hit för att stångas med tystnaden. Min arbetsstuga är liten. Flygeln har det lika skavande trångt därinne som svalan under tegelpannan. De vackra branta sluttningarna tiger för det mesta. Det finns ingen passage men det finns en lucka som öppnas ibland och ett märkvärdigt sipprande ljus direkt från trollen. Reducera! Och hammarslagen i berget kom, kom kom kom in en vårnatt i vårt rum förklädda till hjärtats slag. Året innan jag dör ska jag sända ut fyra psalmer för att spåra upp Gud. Men det börjar här. En sång om det som är nära. Det som är nära. Slagfält inom oss där vi Dödas Ben slåss för att bli levande.Dịch Tôi, Edvard Grieg, tôi thay đổi chỗ như một con người tự do Tôi luôn thích đùa giỡn, đọc báo, thích du lịch và tôi đi Tôi chỉ huy dàn nhạc Cử toạ với chùm đèn rung rinh khi thành công giống như chiếc phà khi cập bến Tôi được đưa lên đây để đấu gươm với sự im lặng Xưởng nhỏ sửa giày của tôi chật hẹp Chiếc dương cầm cũng nằm ép ở đó như con chim én dưới ngói mái nhà Những bức vách đẹp thẳng đứng trên bờ biển thường ngày vẫn im ắng Không có lối qua nào nếu không phải một cửa sổ cánh trượt đôi khi được mở một ánh sáng thóc mách từ cõi ma luồn thẳng vào Đơn giản làm sao! Những búa tạ của núi đã động động động vào trong phòng chúng tôi một đêm xuân thay đổi thành tiếng đập của trái tim Một năm trước khi tôi qua đời tôi sẽ gửi bốn khúc Thánh ca lên tìm Chúa Việc đó bắt đầu ở đây Một bài hát về những gì gần chúng ta nhất Những gì gần chúng ta nhất Chiến trường nội tâm Xương Cốt của Người Chết chúng ta đấu tranh để đến với cuộc đời

Một người nước Benin

(Om et fotografi af et broncerelief fra 1500-tallet fra negerriget Benin forestillende en portugisisk jøde) Da mørket faldt på var jeg stille men min skygge hamrede på håbløshedens trommeskind. Da slagene begyndte at dø bort så jeg billedet af et billede af en mand der trådte frem på den side af det tomme der lå opslået. Som at gå forbi et hus forlængst forladt og en viser sig i vinduet. En fremmed. Han var lodsen. Han syntes opmærksom. Kom nærmere uden et skridt. I en hat som kubede sig efterlignende vor hemisfære med bræmmen ved ækvator. Håret delt i to finner. Skægget hang kruset som veltalenhed om munden. Han holdt høje arm bøjet. Den var smal som et barns. Den falk der skulle have haft sin plads på hans arm voksede frem i hans ansigtstræk. Han var ambassadøren. Afbrudt midt i en tale som stilheden fortsætter med endnu stærkere magt. Tre stammer tav i ham. Han var tre folks billede. En jøde fra Portugal, bortsejlet med de andre, de drivende og ventende, den sammenkrøbne flok i karavellen, der var deres gyngende træmoder. Landsteget i en fremmed duft som gjorde luften lodden. Iagttaget på markedspladsen af negeren – gydekunstneren. Genfødt i metallets race: “Jeg er kommet for at møde den der løfter op sin lygte for at se sig selv i mig.”Dịch (Nhân một tấm ảnh chụp hình nổi bằng đồng thế kỷ XVI của Vương quốc da đen Bénin, về một người Do thái Bồ Đào Nha) Khi ban đêm xuống, tôi đứng im bóng của tôi liền đập mạnh trên mặt trống của niềm vô vọng Rồi nhịp trống nhạt dần tôi thấy vẽ lên hình ảnh bâng khuâng một con người xuất hiện trên một trang giấy trắng người ta đã mở ra Tôi đi dọc ngôi nhà từng bỏ hoang qua cửa sổ có người ra mắt Một người nước ngoài Người hướng dẫn của tôi: Anh đưa mắt chăm chỉ xích lại gần một tý Anh đội chiếc mũ uốn cong nhại cái bán cầu trời sáng tạo vành mũ như nằm trên xích đạo Chia làm hai mái, tóc rẽ ra Râu quai nón sóng gợn mượt mà dưới môi, như người hùng biện Anh gấp cánh tay phải như của trẻ con, vì gày guộc Chim cắt có thể giấu chỗ này ta đoán chừng như vậy không trông nét mặt anh áy náy Cũng là một sứ giả đó sao? Ngừng giữa một hồi lại thao thao sự yên lặng sau đó càng tăng cường độ Đều im, ba bộ lạc trong anh Hình ảnh ba dân tộc rành rành Một người Do thái Bồ Đào Nha xuống thuyền cùng các bạn anh họ đi không rõ ràng hướng bước có thể một tốp người lạc gốc trong mộty chuyến thuyền buồm thuyền trở thành người mẹ bằng gỗ luôn Bến thuyền và các mùi hương lạ không khí bỗng như có lông lá Chú ý ở chợ bên một nghệ sĩ xưởng đúc Tuổi bốn mươi, khi nhìn nét mặt Từ kim loại gốc, anh hồi sinh: “Tôi đến đây dự cuộc gặp gỡ của người sẽ nâng ngọn đèn hiệu để tự thấy được mình ngay nơi tôi”
Trên đây, uct.edu.vn đã cập nhật và dành tặng quý độc giả những bài thơ dịch đặc sắc và hấp dẫn của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Hy vọng qua bài viết các bạn sẽ yêu thích những bài thơ cũng như bài viết này của chúng tôi. Cảm ơn các bạn đã theo dõi! Xem Thêm :
Bài Nhiều Lượt Xem  Chùm Thơ Đặc Sắc Của Chu Đường Anh