Công thức những mùa đông
I Jag somnade i min säng och vaknade under kölen. På morgonen klockan fyra då tillvarons renskrapade ben umgås med varandra kallt. Jag somnade bland svalorna och vaknade bland örnarna. II I lyktskenet är vägens is glänsande som ister. Det är inteAfrika. Det är inteEuropa. Det är ingenstans annat än ”här”. Och det som var ”jag” är bara . ett ord i decembermörkrets mun. III Anstaltens paviljonger utställda i mörkret lyser som TV-skärmar. En dold stämgaffel i den stora kölden utsänder sin ton. Jag står under stjärnhimlen och känner världen krypa in och ut i min rock som i en myrstack IV Tre svarta ekar ur snön. Så grova, men fingerfärdiga. Ur deras väldiga flaskor ska grönskan skumma i vår V Bussen kryper genom vinterkvällen. Den lyser som ett skepp i granskogen där vägen är en trång djup död kanal. Få passagerare; några gamla och några mycket unga. Om den stannade och släckte lyktorna skulle världen utplånas.Dịch I Tôi thiu thiu ngủ trên giường và thức giấc trong lòng tàu Bốn giờ sáng khi xương cốt của đời đã được cọ nắn trong rét buốt lại hỏi thăm nhau Tôi thiu thiu ngủ giữa đàn chim én và thức giấc giữa lũ đại bàng II Trong ánh đèn pha, băng của eo biển chói lên như mỡ nước Không phải Châu Phi Không phải Châu Âu Không phải nơi nào khác là “ở đây” Cái mà tôi đã là “tôi” chỉ còn nguyên một chữ trong mầm của đêm tối tháng mười hai III Những ngôi nhà nơi ẩn náu nằm trong bóng đêm sáng lên như màn ảnh vô tuyến truyền hình Một âm thoa giấu trong mùa tê lạnh thốt lên âm giai của mình Tôi đứng dưới bầu sao cảm thấy thế giới đi vào rồi thoát ra khỏi cái áo tôi khoác như thoát ra khỏi một tổ kiến IV Ba cây giẻ thẫm đen dưới tuyết Chúng thô nhưng khéo tay làm sao Trong những chiếc lọ mênh mông của cây lá xanh mùa xuân thức giấc như sủi bọt lên V Chiếc xe buýt lê bánh trong đêm đông Chói lên như một con thuyền trong rừng thông con đường là dòng sông chết, bó hẹp và lắng sâu Khách ít: vài ông già và dăm cậu trai trẻ măng Xe dừng, nếu vặn tắt đèn pha mọi người bỗng như biến mất
Cung điện Palatset
Vi steg in. En enda väldig sal, tyst och tom, där golvets yta låg som en övergiven skridskois. Alla dörrar stängda. Luften grå. Målningar på väggarna. Man såg bilder livlöst myllra: sköldar, våg- skålar, fiskar, kämpande gestalter i en dövstum värld på andra sidan. En skulptur var utställd i det tomma: ensam mitt i salen stod en häst, men vi märkte honom inte först när vi fångades av allt det tomma. Svagare än suset i en snäcka hördes ljud och röster ifrån staden kretsande i detta öde rum, sorlande och sökande en makt. Också något annat. Något mörkt ställde sig vid våra sinnens fem trösklar utan att gå över dem. Sanden rann i alla tysta glas. Det var dags att röra sig. Vi gick bort mot hästen. Det var jättelik, svart som järn. En bild av makten själv som blev kvar när furstarna gått bort. Hästen talade: ”Jag är den Ende. Tomheten som red mig har jag kastat. Detta är mitt stall. Jag växer sakta. Och jag äter tysnaden härinne”.Dịch Ta đi vào. Phòng rộng bao la lặng và trống, nền hoa lóng lánh như sân trượt pa-tanh bỏ vắng Không gian xám xịt sắc chiều tà Tranh trên tường. Hình ảnh không hồn những tấm khiên rồi những đĩa cân những con cá, những tên lính tráng một thế giới điếc câm, tán loạn Tượng điêu khắc dựng trong trống không chính giữa phòng, mỗi một chú ngựa từ đầu, ta vẫn không trông bởi cảnh trống rỗng thu hút ta hơn nữa Còn yếu hơn tiếng vỏ ốc chùng chiềng nghe tiếng nói, tiếng ồn thành phố quay trong không gian vắng hoang vô độ rì rầm kêu, tìm kiếm uy quyền Còn việc khác. Cái việc xì xào đến cắm chặt ở năm ngõ vào ngũ quan ta, không thể vào được Trong cốc lặng im, cát đà trôi tuột Đến lúc phải động đậy, trổ tài Gần con ngựa, nó thật là to tát đen như kim khí. Dáng oai đứng đó, khi chúa nó đà đi mất! Con ngựa bảo: “Ta là Độc Nhất Ta đã đánh ngã ngựa cái trống-không từng cưỡi ta Ta dần lớn lên. Đây chuồng của ta Ta ăn sự lặng im mà nơi đây trải khắp”
Cuộc du hành Resan
På tunnelbanestationen. En trängsel bland plakat i ett stirrande dött ljus. Tåget kom och hämtade ansikten och portföljer. Mörkret nästa. Vi satt som stoder i vagnarna som halades i hålorna. Tvång, drömmar, tvång. På stationer under havsnivån sålde man mörkrets nyheter. Folk var i rörelse, sorgset, tyst under urtavlorna. Tåget förde med sig ytterkläder och själar. Blickar i alla riktningar på resan genom berget. Ingen förändring ännu. Men närmare ytan började frihetens humlor surra. Vi steg ur jorden. Landet slog med vingarna en gång och blev stilla under oss, vidsträckt och grönt Sädesax blåste in över perrongerna. Slutstationen! Jag följde med bortom slutstationen. Hur många var med? Fyra, fem, knappast flera. Hus, vägar, skyar, blå fjärdar, berg öppnade sina fönster.Dịch Trong ga tàu điện ngầm Áp phích chen kề nhau Trong ánh sáng mờ đều Đoàn tàu đến để mang đi những khuôn mặt người và những cặp tài liệu Ga sau là bóng tối Ngồi như tượng trong toa trượt chạy qua các hầm Gò bó, mộng mơ, lệ thuộc Họ rao bán các tin đêm nơi tàu dừng – theo toạ độ dưới mặt biển Bóng người chuyển động, âu sầu, trầm mặc và lặng im dưới mặt đồng hồ Đoàn tàu chở đi xa các áo khoác và bao tâm hồn Ở mọi hướng vẫn cái nhìn từ lúc ngao du trong núi Chưa có gì khác hơn Sắp ra khoỉe hầm tàu Câu chuyện vẫn xôn xao Chúng tôi bước lên mặt đất Chỉ một lần thôi đất nước vỗ cánh trước khi đứng lại đất nước bao la, xanh tươi Các bông lúa mì bay đến trên các ke tàu điện ngầm Cuối đường! Tôi ra đi còn xa, xa hơn nữa Chúng ta có bao nhiêu người? Bốn, năm và hơn một chút Những ngôi nhà, con đường, đám mây vũng nước xanh, dãy núi mở cửa sổ nhìn trời
Cuối cùng của lao động
Mitt under arbetet börjar vi längta vilt efter vild grönska, efter Ödemarken själv, bara genomträngd av telefontrådarnas tunna civilisation. Fritidens måne kretsar kring planeten Arbete med dess massa och tyngd. – Det är så de vill ha det. När vi är på hemväg spetsar marken öronen. Underjorden lyssnar på oss via grässtråna. Också den här arbetsdagen finns en privat stillhet. Som i ett rökigt inland där en kanal går: BÅTEN visar sig oväntat mitt i trafiken eller glider fram bakom fabriken, en vit luffare. En söndag går jag förbi ett omålat nybygge som står framför en grå vattenyta. Det är halvfärdigt. Träet har samma ljusa färg som skinnet på en som badar. Utanför lamporna är septembernatten alldeles svart. När ögonen vänjer sig ljusnar det något över marker där stora sniglar glider fram och svamparna är talrika som stjärnona.Dịch Trên mảnh đất xinh tươi của lao động tôi mơ sắc xanh thời hoang sơ tôi mơ các sa mạc lặng tờ chỉ có dây điện thoại văn minh chuyển động Trăng thở tự do bám hành tinh Lao động cả khối hình, trọng lượng, thiết tha Khi về nhà, đất vểnh tai nghe ngóng Lá cỏ đưa tin, lòng đất đợi chờ ta Ngày lao động có những lúc lặng im riêng Như trong vùng ám khói có con sông nước chảy CON TÀU hiện ra, không ai trông ngó mấy như trôi sau nhà máy, con tàu trắng lang thang Chủ nhật, gặp một ngôi nhà mới, chưa sơn được dựng lên trước dòng nước xám Xây cất sắp xong. Gỗ có màu tươi trơn như da của ai vừa mới tắm Phía sau đèn, đêm tháng chín màu đen Khi mắt ta quen, ánh sáng trở về trên đất tại đó xuất hiện nhiều con sên to tát Cũng chốn này đấm đông đặc tựa sao đêm
Dạo đầu Preludium
Uppvaknandet är ett fallskärmhopp från drömmen. Fri från den kvävande virveln sjunker resenären mot morgonenes gröna zon. Tingen flammar upp. Han fornimmer – i dallrande lärkans position – de mäktiga trädrotsystemens underjordiskt svängande lampor. Men ovan jord står – i tropiskt flöde – grönskan, med lyftande armar, lyssnande till rytmen från ett osynligt pumpverk. Och han sjunker mot sommaren, firas ned i dess bländande krater, ned genom schakt av grönfuktiga åldrar skälvande under solturbinen. Så hejdas denna lodräta färd genom ögonblicket och vingarna breddas till fiskgjusens vila över ett strömmande vatten. Bronsålderslurens fredlösa ton hänger över det bottenlösa. I dagens första timmar kan medvetandet omfatta världen som handen griper en solvarm sten. Resenären står under trädet. Skall, efter störtningen genom dödens virvel, ett stort ljus vecklas ut över hans huvud?
Dấu ấn Spår
På natten klockan två: månsken. Tåget har stannat mitt ute på slätten. Långt borta ljuspunkter i en stad, flimrande kallt vid synranden.Som när en människa gått in i en dröm så djupt att hon aldrig ska minnas att hon var där när hon återvänder till sitt rum.Och som när någon gått in i en sjukdom så djupt att allt som var hans dagar blir några flimrande punkter, en svärm, kall och ringa vid synranden.Tåget står fullkomligt stilla, Klockan två: starkt månsken, få stjärnor.Dịch Vào hai giờ sáng: ánh trăng. Xe hoả dừng lại giữa đồng bằng. Xa xa, những chấm sáng thành phố lấp lánh lạ lùng tận nơi cùng kiệt của mắt nhìn Giống như khi một người đi khá sâu vào giấc mộng đến nỗi anh không nhớ là mình đã cư trú nơi đó lúc trở về gian phòng của anh Giống như người ta đi vào sâu quá trong bệnh tình đến nỗi tinh chất của tháng ngày chuyển thành các tia sáng một lũ tia sáng vô nghĩa và nhạt nhẽo tận nơi cùng kiệt của mắt nhìn Đoàn tàu hoàn toàn bất động Hai giờ: một ánh trăng bất động. Và sao, cũng hiếm gặp
Dưới sức ép Under tryck
Den blå himlens motordån är starkt. Vi är närvarande på en arbetsplats i darrning, där havsdjupet plötsligt kan uppenbara sig – snäckor och telefoner susar. Det sköna hinner man bara se hastigt från sidan. Den täta säden på åkern, många färger i en gul ström. De oroliga skuggorna i mitt huvud dras dit. De vill krypa in i säden och förvandlas till guld. Mörkret faller. Vid midnatt går jag till sängs. Den mindre båten sätts ut från den större båten. Man är ensam på vattnet. Samhällets mörka skrov driver allt längre bort.Dịch Tiếng động cơ từ bầu trời xanh lớn Chúng tôi đứng run trong chỗ việc đang làm tại đó đáy biển khơi bất ngờ xuất hiện vỏ sò và điện thoại có tiếng dội như nhau Chúng ta chỉ thấy được cái đẹp ở phía này Lúa mì trên các cánh đồng, khá nhiều màu sắc trên một con sông ửng vàng tại đó những cái bóng nổi sóng, đổ lên trong đầu tôi Chúng muốn thọc ngang qua các cây lúa mì và tự đổi thành vàng Bóng tối ngả xuống. Khuya, tôi lên giường Chiếc thuyền nhỏ, con tàu lớn đã thả ra Người ta một mình trên sóng nước Các vỏ trứng của làng quê còn trôi dạt xa hơn
Điệu ca ai oán Lamento
Han lade ifrån sig pennan. Den vilar stilla på bordet. Den vilar stilla i tomrummet. Han lade ifrån sig pennan. För mycket som varken kan skrivas eller förtigas! Han är lamslagen av något som händer långt borta fast den underbara kappsäcken dunkar som ett hjärta. Utanför är försommaren. Från grönskan kommer visslingar – människor eller fåglar? Det går veckor. Det blir långsamt natt. Malarna sätter sig på rutan: små bleka telegram från världen.Dịch Anh đặt cây bút xuống Nó nghỉ yên trên bàn Nó nghỉ trong hư không Anh đặt cây bút xuống Nhiều việc không viết được cũng không thể để yên Bị đờ đẫn, tê liệt Bao việc ở nơi xa dù túi đeo nhịp đập run rẩy chính trái tim ta Bên ngoài, mùa hạ chói chang Rì rào cây xanh hát Tiếng chim chuyền cành đang hót Hay tiếng người nói, cười Anh đào nở mơn mởn Xe tải trở về nhà Các tuần lễ đi qua Ban đêm từ từ buông Nhầy bọ trên gạch hoa: những bức điện xanh gửi cho trần thế
Giấc mơ Balakirev (1905)
Det sorte flygel, den glinsende edderkop stod dirrende midt i sit net af musik. I koncertsalen tonedes et land frem hvor stenene ikke var tungere end dug. Men Balakirev faldt i søvn under musikken og drømte en drøm om tsarens droske. Den rullede frem over klippesten rakt ind i det krageskrattende mørke. Han sad alene inde i vognen og så – men løb dog ved siden af på vejen. Han vidste, at rejsen havde varet længe og hans ur viste år – ikke timer. Det var en mark hvor ploven lå og ploven var en nedstyrtet fugl. Det var en bugt hvor fartøjet lå indefrosset, med folk på dækket. Drosken gled derhen over isen med en lyd og hjulene spandt og spandt med en lyd af silke. Et mindre krigsfartøj: “Sevastopol”. Han var ombord. Besætningen kom frem. “Du slipper for at dø hvis du kan spille.” De pegede på et ejendommeligt instrument. Det lignede en tuba, eller en fonograf, eller en del af en ukendt maskine. Stiv af rædsel, hjælpeløs forstod han: det er det instrument der driver orlogsskibene. Han vendte sig mod den nærmeste matros tegnede fotvivlet med hånden og bad: “Gør korstegnet som jeg, gør korstegnet som jeg!” Matrosen stirrede sørgmodigt som en blind, strakte armene ud, hovedet sank ned – han hang som fastspigret i luften. Trommerne gik. Trommerne gik. Bifald! Balakirev vågnede op af sin drøm. Han så manden ved flyglet rejse sig. Bifaldets vinge smældede i salen. Ude lå gaderne mørkelagt af strejken. Droskerne rullede hastigt i mørket.Dịch Chiếc dương cầm cánh đen, dãy phím bóng loáng rung êm giữa bản nhạc của người Trong phòng hoà hoà nhạc dội lên tâm hồn một đất nước các tảng đá từng không nặng trĩu hơn sương Balakirev ngủ thiu thiu trong nét nhạc và mơ xe ngựa mui gập của Sa hoàng Xe chạy trên đường lát gạch hoa Chìm trong bóng tối vang lên tiếng quạ kêu Người ngồi một mình trong xe và nhìn ra ngoài song lại thấy người chạy bên cạnh xe trên đường Người biết rõ cuộc du hành dài giờ đồng hồ của người không chỉ giờ mà chỉ năm Người trông thấy cánh đồng, một chiếc cày nằm đó là một con chim bị rơi xuống đất Người trông thấy một vũng nước trong đó một chiếc tàu bị vây trong băng giá, đèn tắt ngấm, mọi người đều đứng trên boong Xe ngựa mui gập chạy đằng kia trên băng bánh nó quay, quay trong tiếng nhẹ nhàng tơ mịn Một chiếc tàu chiến nhỏ: tàu Xê-bát-xtô-pôn Neo ở bến. Đoàn thuỷ thủ đến gần “Ông sẽ còn sống nếu ông biết chơi với nó” Họ chỉ cho ông xem một vật dụng lạ kỳ Giống một tuba nhạc khí loại kèn hay một máy hát hoặc một loại máy mà ông chưa hề biết Bối rồi rồi bị sững sờ vì lo sợ, ông bèn hiểu rằng một dụng cụ làm cho các tàu chiến chạy Ông quay về phía người thuỷ thủ đứng gần nhất làm một cử chỉ vô hy vọng và khẩn nài anh: “Hãy làm dấu thập ác như ta, dấu thập ác!” Thuỷ thủ buồn thiu ngắm ông như một người mù Anh dang tay ra và đầu ngả xuống đứng sững như trời trồng Các trống rung lên. Tiếng trống gầm lên. Tiếng chúc muôn năm! Balakirev nhô lên trên giấc chiêm bao Cánh bay của các tiếng hoan nghênh vang lên trong phòng Người thuỷ thủ trông thấy nhà chơi dương cầm đứng dậy Bên ngoài các con đường đều bị cuộc đình công làm cho tối lại Những chiếc xe ngựa mui gập vội vàng luồn vào đêm đen
Gogol
Kavajen luggsliten som en vargflock. Ansiktet som en marmorflisa. Sitter i kretsen av sina brev i lunden som susar av hån och misstag, ja hjärtat blåser som ett papper genom de ogästvänliga passagerna. Nu smyger solnedgången som en räv över detta land, antänder gräset på ett ögonblick. Rymden är full av horn och klövar och därunder glider kaleschen skugglik mellan min faders upplysta gårdar. Petersburg beläget på samma breddgrad som förintelsen (såg du den sköna i det lutande tornet) och kring nedisade kvarter än svävar manetlikt den arme i sin kappa. Och här, insvept i fastor, är han som förr omgavs av skrattens hjordar, men de har för länge sedan begivit sig till trakter långt ovanför trädgränsen. Människors raglande bord. Se ut, hur mörkret bränner fast en vintergata av själar. Så stig upp på din eldvagn och lämna landet!Dịch Một chiếc áo ngắn mòn sờn, giống như một bầy đàn chó sói Một khuôn mặt tựa một mảnh đá cẩm thạch vỡ Ngồi giữa một đống thư từ, trong khoảng rừng cây ấy nó run lập cập toàn những châm chọc mỉa mai, toàn những sự hiểu lầm và trái tim ông bay bổng lên như một tờ giấy trong các ngõ hẻm không hiếu khách Giờ này, mặt trời lặn chảy trơn như một con chồn cáo trên các khoảnh đất đai nung đốt trong giây lát Không gian chứa đầy sừng và móng vuốt và dưới phía thấp hơn chiếc xe ngựa mui gập trôi như một chiếc bóng giữa các ngôi vườn sáng chói của bố tôi Petersburg ở cùng vĩ tuyến với sự đau buồn (bạn có trông thấy cô gái đứng nghiêng mình trong ngôi tháp của cô ta?) và tại ngoại vi các phường đầy sương giá, con người cùng khổ ấy còn lượn đi lượn lại trong áo khoác của ta, như một con sứa Và giữ nếp như trong tuần chay tịnh của anh, đây con người mà ngày xưa các bầy lũ của sự cợt nhả đã vây quanh, các bầy lũ này thời gian dài đã đến nhập cuộc trong các vùng xa hơn nhiều với biên giới của vô vàn cây cối Chiếc bàn lắc lư của các con người Bạn hãy nhìn xem ban đêm đã thiêu huỷ đến chừng nào sông Ngân hà của các tâm hồn Bạn hãy bước lên chiếc xe bốn bánh của ngọn lửa thiêng
Hoà bình trị vì trên sống mũi tàu sôi sục
I den forsande stäven är vila En vintermorgon förnimmes hur denna jord vältrar sig fram. Mot husets väggar smattrar ett luftdrag ur det fördolda. Omflutet av rörelse: stillhetens tält. Och det hemliga rodret i flyttfågelsflocken. Ur vinterdunklet stiger tremulo från dolda instrument. Det är som att stå under sommarens höga lind, med tiotuen insektsvingars dån över sitt huvud.Dịch Một sớm mùa đông, tôi cảm thấy trái đất đi về phía trước bằng cách tự lăn tròn Một nhịp thở của không khí đến từ lòng đất sâu kín lộp bộp trên các tường nhà Tắm trong sự chuyển động: chiếc lều của lặng im Bánh lái huyền vi của một đám chim mùa di trú Điệu rung giọng các nhạc cụ cất giấu đâu đó bay lên từ bóng dáng mùa đông Dường đâu lúc chúng ta đây dưới tán cây đoạn lớn mùa hè với tiếng vù vù của hàng chục triệu cánh côn trùng bay trên ta
Izmir vào lúc ba giờ
Strax framför på den nästan tomma gatan två tiggare, den ene utan ben –han bars omkring på ryggen av den andre. De stod – som på en midnattsväg ett djur står bländat stirrande i bilens lyktor –ett ögonblick och fortsatte att gå och rörde sig som pojkar på en skolgård snabbt över gatan medan middagshettans myriader klockor tickade i rymden. Blått gled förbi på redden, flimrande. Svart kröp och krympte, stirrande ur sten. Vitt blåste upp till storm i ögonen. När klockan tre var trampat under hovar och mörkret bultade i ljusets vägg åg staden krypande vid havets dörr och glimmande i gamens kikarsikte.Dịch Cách con đường có ít khách đi một chút hai người hành khất, một cụt chân và người kia cõng trên lưng đưa đi nơi này nơi khác Họ dừng lại – như trên con đường khuya một con vật mắt bị chói nhìn chằm chằm vào đèn pha mỗi một chiếc xe họ dừng lại một lúc rồi tiếp bước Cũng nhanh như học trò trên sân chơi họ băng qua đường trong khi vô số đồng hồ nóng như thiêu kêu tích tắc trong không gian trưa Từ màu xanh nó đi qua trên bờ biển bằng những cuộc trượt dài cháy lửa Từ màu đen nó bò lê rồi tự xoá mất, cặp mắt nhớn nhác trong mô đá Từ màu trắng nó thổi thành đại phong vào mắt nhìn Khi chân đã bước trong ba tiếng đồng hồ bóng tối đập vào tường của ánh sáng Thành phố bò lê ở các cửa biển Chói long lanh trong mắt kính kền kền
Khi chúng ta từ các đảo xa trở về
När båten nalkas därute kommer ett slagregn och gör den blind Kvicksilverkulorna ryser på vattnet. Det blågrå lägger sig ner. Havet finns också i stugorna. En strimma i farstuns mörker. Tunga steg på övervåningen och kistor med nystrukna leenden. En indisk orkester av kopparkärl. En baby med ögon i sjögång. (Regnet börjar försvinna. Röken tar några stapplande steg i luften över taken.) Här följer mera som är större än drömmar. Stranden med alarnas kyffen. Ett plakat med påskriften KABEL. Den gamla ljungheden lyser för någon som kommer flygande. Bakom klipporna rika tegar och fågelskrämman vår utpost som vinkar färgerna till sig. En alltid ljus förvåning när ön räcker ut en hand och drar mig upp ur sorgsenhet.Dịch Khi tàu vào gần mưa rào đổ xuống che lấp nó Trên sóng rung rinh mấy giọt thuỷ ngân màu xám xanh trải ra càng rõ Đại dương vào tận các túp lều Ánh mờ trộn với bóng đêm gian phía trước Trên gác lửng ai kia nặng bước hòm gỗ cười tươi lại mới sơn đều Dàn nhạc thổ dân tân thế giới bình chậu bằng đồng reo tiếng reo khơi gợi Một đứa trẻ sơ sinh cặp mắt sóng lừng xinh (Cơn mưa dần ngớt Khói bước từng bước một trong không gian trên mái nhà lơ lửng bàng hoàng) Tiếp đây vẫn còn những thư lớn hơn trong chiêm bao Bãi biển và hốc trú cá chình Một áp phích ghi DÂY CÁP Khoảnh trăng già nua sáng gấp báo trước cho ai thường đến vỗ cánh bay nhanh Đất màu mỡ sau mỏm đá người lính canh kêu gọi kéo cờ Sự ngạc nhiên có thể lớn hơn khi hòn đảo quê bắt tay tôi kéo tôi ra khỏi nỗi buồn
Khổ thơ và khổ thơ hồi
Den yttersta kretsen är mytens. Där sjunker rorgängaren upprätt bland glittrande fiskryggar. Hur långt från oss! När dagen står i en kvav och vindlös oro – som Kongos gröna skugga håller blåmännen i sin dunst – när all denna drivved på hjärtats trögt slingrande flod tornar upp sig. Plötslig förändring: in under himlakropparnas vila glider de tjudrade. Med aktern högt, i hopplöst läge, står skrovet av en dröm, svart mot ljusrött kustband. Övergivna störtar sig åren, snabbt och ljudlöst – som slädskuggan, hundlik, stor far över snö, hinner skogen.Dịch Vòng ngoài là vòng của huyền thoại. Tại đó kẻ đục khoét chìm đắm trong chết đứng giữa lưng những con cá chói chang Xa chúng ta đến vậy sao! Lúc mà ban ngày được tóm tắt trong một công việc làm nghẹt thở do vắng gió tựa như bóng xanh lá cây của Congo tại đó những con người mặc áo quần xanh nín thở khi mà gỗ đóng bè trôi sông chất đống theo chiều dài con nước trong tình tiết lắt léo lười biếng của con tim Một sự xáo trộn bất ngờ: những người bị xích xiềng trượt dài dưới sự nghỉ ngơi của các bản thể nhà trời Đuôi thuyền vểnh cao trong một trạng thái tuyệt vọng cái vỏ của mộng mơ tách ra màu đen trên nền đỏ nhẹ của đất bờ Bị bỏ rơi, các mái chèo rơi vội xuống và không có tiếng động tựa bóng xe con trượt tuyết giống như một con chó to nó chạy trên băng giá và trở lại với rừng câyNguyễn Xuân Sanh là một nhà thơ sở hữu một số lượng thơ đồ sộ được người đời ca tụng và tìm kiếm. Trên đây là những thi phẩm dịch xuất sắc của ông, qua đó chúng ta thêm phần ngưỡng mộ khả năng sáng tác tuyệt đỉnh của thi sĩ này. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết! Xem Thêm :