được đông đảo bạn đọc biết đến bởi những tác phẩm lừng danh và sâu sắc. Chặng đường sự nghiệp của ông luôn gắn liền với thơ ca, chính vì thế mà ông đã sở hữu được cho mình những bài thơ có giá trị đặc biệt và để lại ấn tượng lớn trong lòng bạn đọc. Những trang thơ dich của ông luôn được quý độc giả đặc biệt chú ý nhất là bài thơ dịch của nhà thơ Thụy Điển Tomas Tranströmer . Không để các bạn phải chờ đợi thêm, ngay bây giờ hãy cùng chúng tôi chiêm ngưỡng những thi phẩm đặc sắc này nhé!

Bài ca Sång

Den vita skaran växte: måsar trutar i dräkt av segelduk från döda skepp men fläckad av förbjudna kusters rökar. Alarm alarm kring avfall från en skuta! De trängdes tätt och bildade ett flaggspel som signalerade ”ett byte här”. Och måsar styrde över vattenvidder med blåa åkrar skridande i skummet. Tvärs över gick en fosforväg mot solen. Men i sin forntid färdas Väinämöinen på hansvidd gnistrande i forntidsljus. Han rider. Hästens hovar blir ej våta. Och bakom honom: grön hans sångers skog. Med eken i ett tusenårigt språng. Den stora kvarnen drivs av fågelsång. Och varje träd är fånge i sitt brus. Med stora kottar glimmande i månljus när utmarkstallen tändes som en fyr. Då reser sig Den Andre med sin galdr och pilen flyr vidöppet seende med sång i fjärden som ett fågelsträck. En död sekund när hästen styvnar tvärt och remnar över vattenlinjen som ett blåmoln under åskans känselspröt. Och Väinämöinen störtar tungt i havet (ett brandsegel som väderstrecken spänner). Alarm alarm bland måsarna vid fallet! På samma sätt med den som utan ängslan förhäxad står mitt i sin lyckas tavla med elva sädeskärvar bugande. Förtröstans alptopp nynnade i etern tretusen meter högt där molnen seglar ikapp. Den stinna brugden vältrar sig i ljudlöst gapskratt under havets yta. (Död och förnyelse när vågen kommer.) Och vinden cyklar genom löven fridfullt. Då trummar åskan dovt mot horisonten (som buffelhjorden flyktar i sin rök). En skuggas näve knyter sig i trädet och störtar honom nu som står förhäxad mitt i sin lyckas bild där kvällens himmel syns glöda bak en vildsvinsmask av skyar. Hans dubbelgångare blev avundsam och träffar hemligt avtal med hans kvinna. Och skuggan samlar sig och blir en flodvåg en flodvåg mörk med måsar ridande. Och babordshjärtat fräser i en bränning. Död och förnyelse när vågen kommer. Den vita skaran växte: måsar trutar i dräkt av segelduk från döda skepp men fläckad av förbjudna kusters rökar. Gråtruten: en harpun med sammetsrygg. I närbild som ett översnöat skrov med dolda pulsar blixtrande i takt. Hans flygarnerver i balans. Han svävar. Han drömmer fotlöst hängande i vinden sin jägardröm med näbbens skarpa skott Han dalar glupskutslagen ner mot ytan och kränger sig kring rovet som en strumpa med några ryck. Och lyfter som en ande. (Förnyelsen är krafters sammanhang mer gåtfulla än ålens vandringar. Osynligt träd i blomning. Och liksom en gråsäl i sin undervattensström går upp till vattenytan, drar ett andetag och dyker – alltjämt sovande – till bottnen så har nu Slumraren inom mig hemligt förenat sig med det och återvänt medan jag stod med blicken fäst på annat.) Och dieselmotorn dunkande i svärmen förbi det mörka skäret. fågelskrevan där hungern blommade med töjda gap. Ännu vid mörkrets inbrott hördes de: en ofullgångenhetsmusik som ur orkesterdiket innan spelet börjat. Men på forntidshav drev Väinämöinen ruskad i krabbsjöns vante eller utsträckt i stiltjens spegelvärld där fåglarna förstorades. Och ur ett spillfrö, långt från land vid havets ände växande ur vågor, ur en dimbank sköt det upp: ett väldigt träd med fjällig stam och blad helt genomskinliga och bakom dem avlägsna solars fyllda vita segel gled fram i trance. Och redan lyfter örnen.Dịch Đoàn chim trắng lớn lên dần: hải âu và mòng biển trong bộ áo vải các con tàu chết lấm bụi của các bến biển cấm vào Báo động! Báo động quanh đám rác thải từ các chuyến tàu ven bờ! Chúng nó dịch laaij gần nhau để chơi trò báo hiệu để có thể cho nhau biết “chiếm lấy được chỗ này” Hải âu lượn trên trăm ngàn vũng nước tại đó nhiều rãnh cày đẫm màu xanh chạy thẳng giữa các con sóng bạc Một con đường lân tinh chạy chéo vào mặt trời Nhưng từ tiền sử, thần Vainamoinen tiến bước trên đại dương bao la chói chang đuốc sáng của nghìn xưa Trên lưng ngựa. Các móng chân con vật chẳng bao giờ bị ngấm nước Sau ngài: bát ngát rừng xanh của khúc ca ngâm Nơi đó cây sồi vươn bước nhảy nghìn thời Chiếc cối xay gió lớn được chuyển động nhờ ca khúc các loài chim Và cây bị cầm tù trong tiếng rì rào của nó Các tổ của chúng rạng lên trong ánh trăng khi hàng thông các đất xa sáng lên như một ngọn đèn biển Rồi Người Kia bỗng đứng thẳng dậy trong câu niệm thần chú và mũi tên vụt bay, cặp mắt mở to vừa hát ca, trong bến cảng, như những con chim di trú Một giây phút chết khi con ngựa chồm lên và đập mình vào trên đường con nước như một đám mây xanh dưới dây trời xúc giác của bão tố Và Vainamoinen rơi tõm vào biển (chiếc vải cứu hộ do bốn phương trời trải ra) Báo động! Báo động cho chim hải âu vào giờ giấc lâm nguy! Giống như người không hề biết sợ cái gì bị mê hồn giữa cảnh đời hạnh phúc sụp quì lạy với mười thưng lúa mì Các đỉnh non cao của hi vọng ngân nga trong thanh khiết ở ba nghìn thước bề cao, nơi mà mây xa bày lên một cuộc đua thuyền Con cá nhám góc, mủm mỉm Nó mủm mỉm đầm mình trong tiếng cười yên lặng dưới mặt biển (Cái chết và sự hồi sinh, khi mà ngọn sóng ùa đến) Gió thì yên lành quay vội qua tán lá Cơn bão rung trống lặng tờ ở tận chân trời (tựa một đàn trâu chạy trốn trong đám bụi) Nắm đấm của bóng tối lao xuống chòm cây Nó bỗng lật đổ cái cây đang đứng đam mê giữa cảnh đời hạnh phúc khi nó thấy hoàng hôn trở nên đỏ tươi dưới mặt nạ lợn rừng của các đám mây Kẻ giống hệt Người thì bây giờ ganh tị và kín đáo đồng tình với vợ Bóng tối dồn về ngăn tầng dưới Cái ngăn tầng dưới tối đen lũ chim hải âu nhảy vọt Trái tim ở bên mạn trái thuyền khoá miệng lại giữa khoảnh đá ngầm cản sóng Cái chết và sự hồi sinh, khi mà ngọn sóng ùa đến Đàn chim trắng lớn lên dần: hải âu và mòng biển trong bộ áo vải các con tàu chết lấm bụi của các bến biển cấm vào Mòng biển màu tro: một cây mác sắt lưng bọc nhung Nhìn gần, nó là một vỏ trứng gà bọc tuyết đường mạch kín thầm toả ánh nhịp nhàng Dây thần kinh phi công của nó cân bằng tuyệt diệu Nó lượn. Nó mơ, không cần dựa vào dây chằng treo trong gió một giấc mơ của kẻ đi săn về các lần mổ cắn chết mồi Dìu dịu, hạ đôi cánh tham ăn xuống phía biển quấn lấy con mồi như một chiếc tất ngắn với một chút rung lay. Đoạn bay lên tựa một thần linh (Sự phục sinh là một mối tương quan các sức mạnh chúng bí hiểm hơn việc con chạch lần bò Cây nở hoa cũng khó thấy Cũng ví bằng con chó biển lông xám giữa giấc ngủ đáy biển khơi của nó trườn lên trên mặt nước, tiếp tục thở lại và ngụp lại vừa ngủ say trong đáy thẳm Người-đang-ngủ trong tôi bí mật giao kết với quan hệ nhân quả này đã về trở lại trong khi cặp mắt tôi còn chăm chăm nhìn vào một vật khác) Cái động cơ đi-ê-den bổ mạnh vào đàn chim theo chiều dài các đá ngầm tăm tối, theo chỗ rạn nứt của bầy chim lúc cái đói đã nở hoa bằng những hốc mòn há hốc Người ta còn nghe tiếng chim kêu khi đêm xuống một điệu nhạc phát sinh trước thời hạn và dường như bốc lên từ hố ngồi của dàn nhạc khi buổi hoà nhạc chưa bắt đầu Nhưng trên đại dương của tiền sử, Vainamoinen trôi giạt đi chệch hướng lay động bởi các bao tay của sóng lừng hoặc trải dài trong hoàn vũ phản chiếu cái thời buổi tạm yên từ đó chim ra đi và lớn lên Từ một hạt rơi phất phơ xuống các mảnh đất cuối biển khơi người ta thấy dồn lên sóng cả bật lên một lớp sa mù Một cây toả bao la, vỏ thân có vảy lá cây mờ trong, và sau chúng là các cánh buồm trắng phồng lên những ánh nắng khơi xa Ánh nắng nhập đồng. Đại bàng bay lên

Ban ngày sụp đổ Dygnkantring

Stilla vaktar skogsmyran, ser i intet in. Och intet hörs utom dropp från dunkla lövverk och det nattliga sorlet djupt i sommarens canyon. Granen står som visaren på ett urverk, taggig. Myran glöder i bergets skugga. Fågel skrek! Och äntligen. Långsamt börjar molnforan rulla.Dịch Đứng im, cái kiến rình mò, dò xét hư không Hư không đồng tình, ở phía ngoài các giọt mưa rơi trên lá thắm và các tiếng thầm thì của nhạc đêm hè Cây tùng bách đứng tựa như con trượt đồng hồ có khía răng cưa Cái kiến tự chiếu sáng rực trong bóng mát Tiếng chim kêu! Và cuối cùng thì chiếc xe mây nhẹ nhàng tiến bước

Bản tin khí tượng

Oktoberhavet blänker kallt med sin ryggfena av hägringar. Ingenting är kvar som minns kappseglingarnas vita yrsel. En bärnstensdager över byn. Och alla ljud i långsam flykt. Ett hundskalls hieroglyf står målad i luften över trädgården där den gula frukten överlistar trädet och låter sig falla.Dịch Đại dương tháng mười lóng lánh vô tư với chiếc vây lưng những con quái vật biển đầu sư tử Chẳng có gì nhắc lại sự say sóng màu trắng của các cuộc đua thuyền Một ánh ngời màu hổ phách xóm làng quê và mọi tiếng ồn đều chậm rãi chạy trốn Chữ tượng hình cổ của tiếng chó sủa được vẽ lên trong không trung của các ngôi vườn Tại đó một trái vàng lập mẹo với cây tự rơi xuống đất

Bão táp Storm

Plötsligt möter vandraren här den gamla jätteeken, lik en förstenad älg med milsvid krona framför septemberhavets svartgröna fästning.Nordlig storm. Det är i den tid när rönnbärs- klasar mognar. Vaken i mörkret hör man stjärnbilderna stampa i sina spiltor högt över träden.Dịch Bỗng nhiên, chiếc tàu viễn du gặp ở đó cây sồi to cổ thụ tựa một tảng đá nhảy khổng lồ mà vòng vành nó rộng đến nhiều dặm giáp mặt với ngôi thành xanh lơ của đại dương tháng chín Bão táp phương Bắc. Cũng vào vụ các quả lê đã chín muồi. Thức giấc trong đêm đen, người ta nghe các chòm tinh tú giậm chân trong các ngăn chuồng của chúng cao hơn nhiều trên các tán lá cây

Bóng một người bơi âm thầm

Om en förhistorisk målning på en klippa i Sahara: en simmande mörk gestalt i en gammal flod som är ung.Utan vapen och strategi, varken i vila eller språng och skild från sin egen skugga: den glider på strömmens botten.Han slogs för att göra sig fri ur en slumrande grön bild, för att äntligen nå till stranden och bli ett med sin egen skugga.Dịch Nhân bức tranh cổ đại về một mỏm đá Sahara bóng một người bơi âm thầm trên dòng sông xưa nước xanh Không vũ trang không chiến thuật không nhảy không nghỉ ngơi nhưng luôn cách với bóng của mình bóng trôi dưới đáy dòng sông Anh đấu tranh để gạt bỏ đi một hình ảnh xanh xao lắng dịu trở lại với bờ sông đặng gắn làm một với bóng của mình

Bốn tính tình

Rannsakade ögat förvandlar solstrålarna till polisbatonger. Och på kvällen: glammet från en fest i våningen inunder skjuter upp som overkliga blommor genom golvet. For på slätten. Mörker. Vagnen tycktes ej komma ur fläcken. En anti-fågel skriade i stjärntomhet. Albinosolen stod över kastande sjöar. En man som ett uppryckt träd med kraxande löv och en blixt i givakt såg den vilddjursdoftande solen slå upp bland smattrande vingar på världens klippö forsande fram bakom fanor av skum genom natt och dag med vita sjöfåglar skränande på däcket och alla med biljett till Kaos. Det är bara att blunda så hör man tydligt måsarna ringa söndag över havets oändliga socken. En gitarr börjar knäppa i snåret och molnet vandrar långsamt som den sena vårens gröna släde med gnäggande ljuset förspänt- kommer glidande isen. Vaknade med väninnans klackar smällande i drömmen och utanför två snödrivor som vinterns kvarglömda handskar medan flygblad från solen dråsade över staden. Vägen tar aldrig slut. Horisonten skyndar framåt. Fåglarna skakar trädet. Dammet yr kring hjulen. Alla rullande hjul som motsäger döden!Dịch Con mắt dò xét lay động các tia mặt trời bằng dùi cui cảnh sát Và ban đêm: trận cười ở phòng dưới lễ hội bắn lên như những đoá hoa hồng không thực qua các rãnh mặt nền Xe tôi chạy trên đồng bằng. Đêm tối. Chiếc xe con dường như không muốn tránh các vết nhơ Một cái bẫy chống chim rít kêu trong không trung đầy sao Mặt trời bạch tạng trải trên các hồ mờ đục và hay đổi thay Một người tựa một cây trụi lá bị chê bai ỉ eo và một tia ánh đứng nghiêm, thảy đều nhìn vào một mặt trời có mùi vị một con thú hoang dã trỗi dậy giữa các đôi cánh ran nổ của hòn đảo lởm chởm đá Mà cũng là các đôi cánh của hoàn vũ bốc lên sau các ngọn cờ sóng biếc đêm khuya giống như ban ngày với những con chim biển có giọng kêu the thé trên boong tàu và dường như tất cả đều đã có một chiếc vé cho Sự Mất Trật Tự Chỉ cần nhắm mắt đã nghe rõ ràng chim hải âu đánh từng tiếng các chuông ngày chủ nhật trên các xứ đạo vô biên của đại dương Một chiếc đàn bấm dây tơ trên các cây của biển và đám mây nhẹ nhàng tiến bước Cũng như các việc mà xe con màu xanh trượt tuyết mùa xuân đã làm vậy trên đó ánh sáng cũng hí như ngựa đã được đóng mắc vào nó đến bằng cách trườn mình trên các tảng băng Được gót giày của các cô bạn gái vang lên trong giấc mơ vừa thức tỉnh dậy và bên ngoài, hai đống tuyết do gió dồn thổi vào giống những người khổng lồ mà mùa đông đã để quên trong lúc truyền đơn của thái dương rải lên trong thành phố Con đường không bao giờ chấm hết. Chân trời vội vàng cuộn lại Chim lay động các cành cây. Bụi nhảy múa xung quanh bánh xe Tất cả các bánh xe ấy đều quay và đều chối từ sự chết!

Buổi chiều – buổi sớm

Månens mast har murknat och seglet skrynklas. Måsen svävar ducken bort över vattnet. Bryggans tunga fyrkant är kolnad. Snåren dignar i mörkret. Ut på trappan. Gryningen slår och slår i havets gråstensgrinar och solen sprakar nära världen. Halvkvävda sommargudar famlar i sjörök.Dịch Cột buồm trắng mục cũ rồi Cánh buồm nhàu nát bồi hồi biển xa Hải âu say lượn sóng ca Đá vuông lát bến đã là rã vôi Cây gai ủ rũ nhánh vơi Tôi bước ra khỏi nhà tôi bồn chồn Rạng đông lấp lánh sương tuôn Còn soi dãy đá ngăn cồn biển thu Ánh trời vui thốt lời ru Để gần với đất cho dù ở xa Vị hè tắt vẫn bôn ba Chen vào mù biển ngân nga sớm chiều

Các không gian đóng và mở Öppna och slutna rum

En man känner på världen med yrket som en handske. Han vilar en stund mitt på dagen och har lagt ifrån sig handskarna på hyllan. Där växer de plötsligt, breder ut sig och mörklägger hela huset inifrån. Det mörklagda huset är mitt ute bland vårvindarna. »Amnesti« går viskningen i gräset: »amnesti«. En pojke springer med en osynlig lina som går snett upp i himlen där hans vilda dröm om framtiden flyger som en drake större än förstaden. Längre norrut ser man från en höjd den blå oändliga barrskogsmattan där molnskuggorna står stilla. Nej, flyger fram.Dịch Xỏ đôi găng tay hành nghề, một con người sờ soạng tìm hiểu thế giới Đến ngọ, anh ta nghỉ ngơi: đặt đôi găng tay trên kệ giá Tại đó, chúng lớn lên, và tự mở ra làm tối đen cả nội thất ngôi nhà Ngôi nhà u ám bị gió xuân bủa vây Được ân xá, tiếng thì thầm qua cổ “Được ân xá” Một em bé chạy, với một sợi dây vô hình nó đi thẳng lên trời nơi mà bao giấc mơ điên dại nhất của nó bay lượn như cái diều còn lớn hơn nhiều các vùng đất ngoại ô Xa hơn nữa, từ một ngọn đồi, người ta trông thấy bức thảm vô cùng xanh biếc của thông tùng tại đó các đám mây trời bỗng nhiên đứng ngừng lại Không, nó bay đến phía ta!

Cái cây và bầu trời

Det går ett träd omkring i regnet, skyndar förbi oss i det skvalande grå. Det har ett ärende. Det hämtar liv ur regnet som en koltrast i en fruktträdgård.Då regnet upphör stannar trädet. Det skymtar rakt, stilla i klara nätter i väntan liksom vi på ögonblicket då snöflingorna slår ut i rymden.Dịch Nhẹ nhàng cây bước dưới mưa Bên tranh thuỷ mạc nước sa đúng mùa Cây chắt sự sống từ mưa Như khướu mượn sức trẻ thơ ngôi vườn Khi mưa hết, cây dứt đường: Thẳng cành, thanh nhã, đêm trường lặng yên Như ta, ai đợi dịu hiền Phút giờ tuyết trắng ảo huyền nở bung

Cánh đồng mùa hè Sommarslätt

Man har sett så mycket. Verkligheten har tärt så mycket på en, men här är sommaren till sist: en storflygplats – trafikledaren tar ner lass efter lass med frusna människor från rymden. Gräset och blommorna – här landar vi. Gräset har en grön chef. Jag anmäler mig.Dịch Tôi đã trông thấy nó nhiều Thực tại làm mòn mỏi chúng ta nhưng đây mùa hè đã đến sân bay lớn này – trên đó người bẻ ghi đưa xuống từ trời, người này sau người khác một đám người bị rét cóng Cỏ rồi hoa – chúng tôi xuống đây Cỏ màu xanh Tôi tự nhủ mình

Cặp vợ chồng Paret

De släcker lampan och dess vita kupa skimrar ett ögonblick innan den löses upp som en tablett i ett glas mörker. Sedan lyftas. Hotellets väggar skjuter upp i himmelsmörkret. Kärlekens rörelser har mojnat och de sover men deras hemligaste tankar möts som när två färger möts och flyter in i varann på det våta papperet i en skolpojksmålning. Det är mörkt och tyst. Men staden har ryckt närmare i natt. Med släckta fönster. Husen kom. De står i hopträngd väntan mycket nära, en folkmassa med uttryckslösa ansikten.Dịch Họ tắt ngọn đèn, bầu sáng còn trong đôi phút sau, ánh ngời tắt hẳn như viên thuốc tan trong ly đựng đầy bóng tối Vách tường khách sạn chói rạng trong trời đêm Những vuốt ve của tình yêu đã hiền dịu lại Họ ngủ nhưng tình cảm sâu xa vẫn nối liền nhau hai sắc màu quấn quýt chan hoà trên tờ giấy phớt bột hồ của hoạ sĩ Thảy đều tối om, êm thấm. Nhưng trong đêm nay thành phố như muốn xích tới gần Mọi cửa sổ đều khép chặt. Các ngôi nhà đã rủ nhau vươn tới Chúng đã có đây xếp kín hàng chờ đợi một đám đông những con người vẻ mặt thản nhiên

Chân dung và bình luận

Här är porträtt av en man som jag kände. Han sitter vid bordet med tidningen utslagen. Ögonen slår sig ner bakom glasögonen. Kostymen är tvättad med barrskogens skimmer. Det är ett blekt och halvfärdigt ansikte. – Men han ingav alltid förtroende. Därför drog man sig för att gå honom nära och kanske då stöta olycka. Fadern hans tjänade pengar som dagg. Men ingen gick ändå helt säker därhemma – man hade en känsla av att främmande tankar bröt sig in villan om nätterna. Tidningen den stora smutsiga fjärilen, stolen och bordet och ansiktet vilar. Livet har stannat i stora kristaller. Men låt det bara stanna tills vidare! Det som är jag i honom vilar. Det finns. Han känner inte efter och därför lever det och finns. Vad är jag? Ibland för länge sen kom jag några sekunder helt nära vad JAG är, vad JAG är, vad JAG är. Men just som jag fick syn på JAG försvann JAG och ett hål uppstod och genom det föll jag som Alice.Dịch Đây chân dung một người tôi quen Anh ngồi bàn, mở to tờ báo Mắt anh nhìn đăm đăm sau kính lão Ánh thông tùng phủ trắng áo anh Mặt anh xanh, dường gọn gàng chút ít Luôn khơi gợi được lòng tin Người ta dè dặt đến bên anh Ngại có thể sa vào một bi kịch Ông cụ anh, lăn lộn trên vàng Người ta bảo vậy – nhưng đâu có chắc thảy đều những tư tưởng kỳ quặc bằng bạo lực xông thẳng vào nhà chàng Tờ báo này đưa những tin không đúng hẳn thế mà cái bàn, cái ghế, cái chân dung đều đọc nó, giải lao. Cuộc sống bỗng ngừng Cuộc sống từ đó ra, trở thành khác dạng Tôi nghĩ tôi tồn tại vì dựa vào anh ta Anh chẳng hề thẩm tra Lâu dài vẫn sống câu chuyện ấy Tôi là ai? Từ lâu dài đôi khi tôi có xích lại gần một tý và TÔI là ai, TÔI là ai, TÔI là ai Nhưng khi tôi tìm được TÔI TÔI tự xoá, một khoảng trống hiện ra tôi rơi vào chính nơi khoảng trống đó

Chim buổi sớm

Jag väcker bilen som har vindrutan överdragen med frömjöl. Jag sätter på mig solglasögonen. Fågelsången mörknar. Medan en annan man köper en tidning på järnvägsstationen i närheten av en stor godsvagn som är alldeles röd av rost och står flimrande i solen. Inga tomrum någonstans här. Tvärs genom vårvärmen en kall korridor där någon kommer skyndande och berättar att man förtalat honom ända upp i styrelsen. Genom en bakdörr i landskapet kommer skatan svart och vit, Hels fågel. Och koltrasten som rör sig kors och tvärs tills allt blir kolteckning, utom de vita kläderna på tvättstrecket: en palestrinakör. Inga tomrum någonstans här. Fantastiskt att känna hur min dikt växer medan jag själv krymper. Den växer, den tar min plats. Den tränger undan mig. Den kastar mig ur boet. Dikten är färdig.Dịch Tôi đánh thức chiếc xe con dậy mảnh gương chắn bụi rắc đầy chất bột Mặc ánh mặt trời cho chiếc kính tôi đeo Tiếng hót bầy chim mờ đi Một người khác đang đi mua báo ở ki-ốt nhà ga không xa một toa chở hàng lớn đầy rỉ bám đỏ lấp lánh dưới mặt trời Ở đây không chỗ nào có khoảng trống Một hành lang băng giá qua cái ấm mùa xuân một người nào đó bước vội đến bảo với chúng tôi người ta vu khống anh kể cả giới lãnh đạo cấp cao Từ một khung cửa kín nhất trong cảnh quan một con chim ác là bay đến đen và trắng. Chim của nữ thần chết chóc Con sáo nhảy nhót nơi đó nơi đây đến nỗi làm ám đen cả bức tranh những chiếc áo trắng vắt trên dây phơi là một hợp xướng của Palestrina Ở đây không chỗ nào có khoảng trống Tuyệt vời thấy bài thơ của tôi lớn lên còn mình thì bị thu hẹp lại Bài thơ lớn lên, ngồi vào chỗ của tôi Nó loại tôi ra Nó vứt tôi ra khỏi tổ Bài thơ đã hoàn thành

Cô đơn Ensamhet

I Här var jag nära att omkomma en kväll i februari. Bilen gled sidledes på halkan, ut på fel sida av vägen. De mötande bilarna – deras lyktor – kom nära. Mitt namn, mina flickor, mitt jobb lösgjorde sig och blev kvar tyst bakom, allt längre bort. Jag var anonym som en pojke på en skolgård omgiven av fiender. Mötande trafik hade väldiga ljus. De lyste på mig medan jag styrde och styrde i en genomskinlig skräck som flöt som äggvita. Sekunderna växte – man fick rum där – de blev stora som sjukhusbyggnader. Man kunde nästan stanna upp och andas ut en stund innan man krossades. Då uppstod ett fäste: ett hjälpande sandkorn eller en underbar vindstöt. Bilen kom loss och krälade snabbt tvärs över vägen. En stolpe sköt upp och knäcktes – en skarp klang – den flög bort i mörkret. Tills det blev stilla. Jag satt kvar i selen och såg hur någon kom genom snöyran för att se vad det blev av mig. II Jag har gått omkring länge på de frusna östgötska fälten. Ingen människa har varit i sikte. I andra delar av världen finns de som föds, lever, dör i en ständig folkträngsel. Att alltid vara synlig – leva i en svärm av ögon – måste ge ett särskilt ansiktsuttryck. Ansikte överdraget med lera. Mumlandet stiger och sjunker medan de delar upp mellan sig himlen, skuggorna, sandkornen. Jag måste vara ensam tio minuter på morgonen och tio minuter på kvällen. – Utan program. Alla står i kö hos alla. Flera.
Nguyễn Xuân Sanh là một gương mặt nổi bật trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc. Với ngòi bút tinh tế và tài hoa ông biến hóa những bài thơ nổi tiếng trên thế giới thành tác phẩm dịch đặc sắc của mình khiến nhiều người thán phục. Cảm ơn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!