dành trọn tâm huyết của mình cho những thi phẩm dịch nổi tiếng trên thế giới. Trong đó có chùm thơ dịch của Andrey Andreevich Voznhesenski. Ông là một nhà văn, nhà thơ Nga kiệt xuất được nhiều bạn đọc năm châu ca ngợi. Rất nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và trở thành những bài hát nổi tiếng. Riêng đối với bạn đọc Việt Nam, có lẽ ai cũng biết bài hát Triệu bông hồng (Миллион алых роз) phổ thơ của Andrey Voznesensky, đã được dịch sang tiếng Việt từ lâu và trở thành bài hát được nhiều người yêu thích. Nào, hãy cùng chúng tôi đến với những thi phẩm dịch của nhà thơ Tế Hanh nhé!

“Bằng thời gian anh giao kết cùng em”

Bằng thời gian anh giao kết cùng em Không phải với nhẫn vàng mà với đồng hồ điện Anh lo sợ những phút giây sẽ biến Chúng ấm áp vì có bàn tay âu yếm của em yêu.

“Hãy sống không phải trong không gian mà trong thời gian”

Живите не в пространстве, а во времени, Минутные деревья вам доверены, Владейте не лесами, а часами, Живите под минутными домами, И плечи вместо соболя кому-то Закутайте в бесценную минуту. Какое несимметричное время! Последние минуты — короче, Последняя разлука — длиннее… Килограммы сыграют в коробочку. Вы не страус, чтоб уткнуться в бренное. Умирают — в пространстве. Живут — во времени.Dịch Hãy sống không phải trong không gian mà trong thời gian Những cây cối phút giây đầy tin cậy Hãy làm chủ không phải những khu rừng mà là khoảnh khắc Hãy sống trong phút giây như dưới mái nhà Và đôi vai ai kia, xin đừng cuốn với lông chồn Mà quấn với một giờ vô giá Thời gian sao mà không đối xứng? Những phút giây cuối cùng – hãy ngắn hơn đi Cuộc chia ly cuối cùng – hãy dài thêm nữa Người ta chết – là trong không gian Người ta sống – là trong thời gian

“Nếu có cuộc thi vô địch”

Если были бы чемпионаты Кто в веках по убийствам первый… «Ты бы выиграл, век двадцатый!» – Усмехается век двадцать первый. Если были бы чемпионаты Кто по лжи и по подлости первый… «Ты бы выиграл, век двадцатый!» – Усмехается век двадцать первый. Если были бы чемпионаты Кто по подвигам первый… Нет нам равных, мой век двадцатый! Безмолвствует век двадцать первый.Dịch Nếu có cuộc thi vô địch Sự giết người, thế kỷ nào xếp nhất Thắng cuộc chắc là thế kỷ hai mươi Thế kỷ hai mốt mỉa mai cười Nếu có cuộc thi vô địch Sự giả dối đê hèn, thế kỷ nào xếp nhất Thắng cuộc chắc là thế kỷ hai mươi Thế kỷ hai mốt mỉa mai cười Nếu có cuộc thi vô địch Thế kỷ nào đứng đầu kỳ tích Thế kỷ hai mươi của tôi chẳng thế kỷ nào bằng Thế kỷ hai mốt lặng câm

“Trí nhớ – đó là bầy sói trên cánh đồng”

Память – это волки в поле, убегают, бросив взгляд, – как пловцы в безумном кроле, озираются назад!Dịch Trí nhớ – đó là bầy sói trên cánh đồng Chúng chạy và quăng cái nhìn về phía trước Như người bơi crun trên nước Toả luồng sáng đằng sau

Cảm hoài về hiện tại

Я не знаю, как остальные, Но я чувствую жесточайшую Не по прошлому ностальгию – Ностальгию по настоящему. Будто послушник хочет к Господу, Ну а доступ лишь к настоятелю – Так и я умоляю доступа Без посредников к настоящему. Будто делал я что-то чуждое, Или даже не я – другие. Упаду на поляну – чувствую По живой земле ностальгию. Нас с тобой никто не расколет, Но когда тебя обнимаю – Обнимаю с такой тоскою, Будто кто тебя отнимает. Когда слышу тирады подленькие Оступившегося товарища, Я ищу не подобья – подлинника, По нему грущу, настоящему. Одиночества не искупит В сад распахнутая столярка. Я тоскую не по искусству, Задыхаюсь по-настоящему. Всё из пластика – даже рубища, Надоело жить очерково. Нас с тобою не будет в будущем, А церковка … И когда мне хохочет в рожу Идиотствующая мафия, Говорю : “Идиоты – в прошлом. В настоящем – рост понимания.” Хлещет чёрная вода из крана, Хлещет ржавая, настоявшаяся, Хлещет красная вода из крана, Я дождусь – пойдёт настоящая. Что прошло, то прошло. К лучшему. Но прикусываю как тайну Ностальгию по настающему, Что настанет. Да не застану.Dịch Chẳng biết những người khác thì sao Riêng tôi thấy vô cùng ngưỡng vọng một nỗi cảm hoài không phải về dĩ vãng mà về hiện tại này đây Dường như tôi đã làm một việc gì lạ lắm hay chẳng là tôi mà những ai ai Khi tôi lăn trên bãi cỏ xanh và cảm thấy Trong đất rưng rưng một nỗi cảm hoài Chẳng có ai chia rẽ hai ta nhưng khi anh ôm em tha thiết anh ôm em với nỗi buồn da diết tưởng chừng như ai đó ôm em Khi tôi nghe những lời nói giả vờ của người đồng chí hay nhầm lẫn tôi tìm không phải bản sao mà là nguyên bản tôi buồn rầu vì hiện tại bao nhiêu! Tất cả tự tạo nên mình, thậm chí đồ giẻ rách cũng chán sống giản đơn sơ lược Anh và em không còn nữa trong tương lai chỉ còn ngưỡng vọng thôi sao? Và khi một gã lưu manh cười sằng sặc vào mũi tôi tôi bảo: kẻ này là quá khứ còn hiện tại đã trưởng thành Dòng nước màu đen xối xả từ vòi dòng nước màu hung xối xả không thôi dòng nước mùi rỉ han xối xả tôi chờ dòng nước thật chảy ra Cái gì qua đi thì qua đi Nhưng tôi nhấm nỗi cảm hoài thực tại như nhấm một điều gì bí mật mà tôi chưa thấy bao giờ.

Cây Xêqua Lênin Секвойя Ленина

В автомобильной Калифорнии, Где солнце пахнет канифолью, Есть парк секвой. Из них одна Ульянову посвящена. “Секвойя Ленина?!” Ату! Столпотворенье, как в аду. “Севойя Ленина?!” Как взрыв! Шериф, ширинку не приклыв, Как пудель с красным языком, Ввалился к мэру на прием. “Мой мэр, крамола наяву. Корнями тянется в Москву… У!..” мэр съел сигару. Караул! В Миссисипи сиганул! По всей Америке сирены. В подвалах воет населенье. Несутся танки черепахами. Орудует землечерпалка. . . . . . . . . . . . Зияет яма в центре парка. Кто посадил тебя, секвойя? Кто слушал древо вековое? Табличка в тигле сожжена. Секвойи нет. Но есть она! В двенадцать ровно ежесуточно над небоскребами светла сияя крной парашютовой светя прожектором ствола торжественно-озарена секвойи нет и есть она вот так салюты над Москвою листвой таинственной висят у каждого своя Секвойя мы Садим Совесть Словно Сад секвойя свет мой и товарищ в какой бы я ни жил стране среди авралов и аварий среди оваций карнавальных когда невыносимо мне я опускаюсь как в бассейн в ее серебряную сень ее бесед — не перевесть.. Секвойи — нет? Секвойя — есть!Dịch Ở xứ Califonia nhiều ô tô Ánh nắng nghe mùi nhựa Trong công viên trồng Xêqua Có một cây mang tên Vladimir Ulianov Là cây Xêqua Lênin Ô! Ô! Một sự hỗn loạn quỷ ma Cây Xêqua Lênin! Sấm động! Tên quận trưởng ống quần mở rộng Lè cái lưỡi đỏ dài như con chó ngao Tất tưởi đến tên thị trưởng Thưa ngài thị trưởng, phản bội rồi! Tất cả đường dây đều dẫn đến Matxcơva Ôi cha! Tên thị trưởng đớp điếu xì gà Hô Lê: Chạy trốn! Và lánh vào xứ Missisipi Khắp cả nước Mỹ hồi còi kêu rống Người ta rên la chạy trốn trong hầm Những chiến xa nhào tới như những con rùa khổng lồ Một chiếc cần cẩu im lìm làm việc! Ở giữa công viên như lỗ hổng mở to Ai trồng cây đấy, Xêqua? Ai lắng nghe cây, hỡi cây cổ thụ? Cái biển đề tên bị đốt trụi Không còn tên cây Xêqua Như không! nó vẫn đứng đó! Mỗi ngày một cao thêm hơn cả nhà chọc trời Đầy ánh sáng Rung rinh như cái dù thả từ máy bay Thân cây như ngọn đèn Chiếu sáng, vươn xa, soi thắp Thế nào? Không còn cây Xêqua? Không! nó vẫn đứng kia mà! Như thể trên trời Matxcơva những chùm pháo Hoa từ vòm bí mật Mỗi người có cây Xêqua của mình Chúng ta trồng trong vườn ta sự sáng suốt Cây Xêqua đồng chí của ta Tôi làm gì và ở đâu Đi chậm hay đi mau Khi nào mệt mỏi Tôi tắm mình trong bể bơi của bóng cây ánh bạc và nói chuyện với cây những gì không nói được Sao? Không có cây Xêqua? -Vẫn có cây Xêqua!

Công trình Hесущих

Аэропорт – озона и солнца аккредитованное посольство! Сто поколений не смели такого коснуться — преодоленья несущих конструкций. Вместо каменных истуканов стынет стакан синевы — без стакана. Рядом с кассами-теремами он, точно газ, антиматериален! Бруклин – дурак, твердокаменный чёрт. Памятник эры — Аэропорт.Dịch Sân bay – sứ quán đặc mệnh toàn quyền Của chất ô-zôn và tia nắng xém Hàng trăm thế hệ Không thể nào đụng đến Cái kiên cố bền lâu những công trình xây dựng trên cao Nơi những khối đá bất di bất dịch Chỉ có một cái cốc lớn trời xanh thủy tinh không phải thủy tinh Cạnh những tủ sắt cột rường có thật Nó như hơi không vật chất! Cạnh Brúclyn, cái đầu cầu bằng đá ngu si Sân bay Đài kỷ nguyên đây

Đông lại Замерзли

Заведи мне ладони за плечи, обойми, только губы дыхнут об мои, только море за спинами плещет. Наши спины, как лунные раковины, что замкнулись за нами сейчас. Мы заслушаемся, прислонясь. Мы – как формула жизни двоякая. На ветру мировых клоунад заслоняем своими плечами возникающее меж нами – как ладонями пламя хранят. Если правда, душа в каждой клеточке, свои форточки отвори. В моих порах стрижами заплещутся души пойманные твои! Все становится тайное явным. Неужели под свистопад, разомкнувши объятья, завянем – как раковины не гудят? А пока нажимай, заваруха, на скорлупы упругие спин! Это нас погружает друг в друга.Dịch Tay anh ôm lấy vai em Ngoài ra không biết quanh mình gần xa Chỉ còn hơi thở hai ta Chỉ còn hơi biển mượt mà sau lưng Lưng ta là vỏ ốc trăng Mở ra khép lại phẳng bằng biển khơi Lắng tai nghe thử em ơi Ta như công thức của đời kết tinh Giữa cơn gió loạn mông mênh Lấy vai che chở mối tình miên man Những gì là của anh em Như che ngọn lửa, mu bàn tay bao Nếu như trong mỗi tế bào Có linh hồn ở ra vào cửa ngăn Ở trong tấm lưới anh giăng Hồn em như thể cánh chim chập chờn Những gì tối sẽ sáng hơn Tiếng còi kết thúc qua cơn bồi hồi Chúng ta không lẽ buông trôi Giống như vỏ ốc để lời lặng im? Trong khi chờ đợi hỡi em! Như cơn gió mạnh qua miền biển xanh Anh trong em, em trong anh Chúng ta ngủ giấc ân tình triền miên

Giấc mơ Сон

На площади судят нас, трех воров. Я тоже пытаюсь дознаться – кто? Первый виновен или второй? Но я-то знаю, что я украл. Первый признался, что это он. Второй улики кладет на стол. Меня прогоняют за то, что вру. Но я-то помню, что я украл. Пойду домой и разрою клад, где жемчуг теплый от шеи твоей… И нет тебя засвидетельствовать, чтобы признали, что я украл.Dịch Ở quảng trường đang xét xử ba tên ăn cắp Tôi cố đoán là ai Tên thứ nhất hay tên thứ hai Nhưng tôi đây biết là tôi ăn cắp Tên thứ nhất thú nhận rằng chính hắn Tên thứ hai đưa chứng cớ lên bàn Họ cho tôi nói dối, họ dồn tôi Nhưng tôi đây nhớ rằng tôi ăn cắp Tôi đi về nhà và bới trong kho báu một chuỗi ngọc ấm từ cổ em Và chẳng có em làm chứng giùm để họ tin rằng tôi ăn cắp

Im lặng! Тишины!

Тишины хочу, тишины!.. Нервы, что ли, обожжены? Тишины… чтобы тень от сосны, щекоча нас, перемещалась, холодящая словно шалость, вдоль спины, до мизинца ступни. Тишины… Звуки будто отключены. Чем назвать твои брови с отливом? Понимание – молчаливо. Тишины. Звук запаздывает за светом. Слишком часто мы рты разеваем. Настоящее – неназываемо. Надо жить ощущением, цветом. Кожа тоже ведь человек, с впечатленьями, голосами. Для неё музыкально касанье, как для слуха – поёт соловей. Как живется вам там, болтуны, чай, опять кулуарный авралец? горлопаны не наорались? Тишины… Мы в другое погружены: в ход природ неисповедимый. И по едкому запаху дыма мы поймём, что идут чабаны. Значит, вечер. Вскипает приварок. Они курят, как тени тихи. И из псов, как из зажигалок, светят тихие языки.Dịch Im lặng, tôi chỉ mong im lặng Có lẽ những đường gân đã vỡ rồi chăng? Im lặng Hãy để bóng một cây thông Vuốt ve vừa rơi xuống Như màn kịch lạnh lùng Chạy từ cổ đến chân Những tiếng những lời như cành cây tách ra Cặp lông mày em sao mà ngời chói? Hiểu mà không cần lời nói Im lặng Âm thanh chậm hơn ánh sáng Chúng ta thường mở mồm quá to Mọi sự có mặt đều không có tên Sống ngang tầm những sắc màu cảm giác Da cũng như con người Nó biết cảm biết nghe Sự vuốt ve như điệu nhạc Tiếng chim hoạ mi ca hát Bọn lắm lời! Các anh làm gì dưới thấp? Các anh la hét chưa đủ sao? Im lặng Ở đây chúng tôi như tắm Trong dòng bí mật của thiên nhiên Nghe mùi khói cay Chúng tôi biết những người chăn cừu xuống núi Và đêm đến, bữa ăn đã sẵn sàng Như những cục bóng lặng câm những người chăn cừu hút thuốc Bầy chó nằm im Lưỡi lè ra sáng ngời như những cái bật lửa

Nguyền rủa Анафема

(Памяти Пабло Неруды) Лежите Вы в Чили, как в братской могиле. Неруду убили! Убийцы с натруженными руками подходят с искусственными венками. Солдаты покинули Ваши ворота. Ваш арест окончен. Ваш выигран раунд. Поэт умирает – погибла свобода. Погибла свобода – поэт умирает. Лежите Вы навзничь, цветами увитый, как Лорка лежал, молодой и убитый. Матильду, красивую и прямую, пудовые слезы к телу пригнули. Поэтов тираны не понимают, когда понимают – тогда убивают. Оливковый Пабло с глазами лиловыми, единственный певчий среди титулованных, Вы звали на палубы, на дни рождения!.. Застолья совместны, но смерти – раздельные… Вы звали меня почитать стадионам – на всех стадионах кричат заключенные! Поэта убили, Великого Пленника… Вы, братья Неруды, затворами лязгая, наденьте на лацканы черные ленточки, как некогда алые, партизанские! Минута молчанья? Минута анафемы заменит некрологи и эпитафии. Анафема вам, солдафонская мафия, анафема! Немного спаслось за рубеж на «Ильюшине»… Анафема моим демократичным иллюзиям! Убийцам поэтов, по списку, алфавитно – анафема! Анафема! Анафема! Пустите меня на могилу Неруды. Горсть русской земли принесу. И побуду. Прощусь, проглотивши тоску и стыдобу, с последним поэтом убитой свободы.Dịch (Viết sau khi nghe tin Nêruđa mất) Anh nằm xuống ở Chi Lê: Hố chôn người công cộng Người ta đã giết Nêruđa Bọn lính phải ra khỏi nhà Không thể bắt nhà thơ – Anh đã thắng Nhà thơ không còn Tự do đã chết Nhà thơ không còn Bọn độc tài không thể hiểu nhà thơ Khi chúng hiểu Chúng liền giết họ Pablô, quả ô-liu với đôi mắt màu hoa li-la Người ngợi ca duy nhất trong những ngày lễ anh gọi chúng ta đến quanh bàn Quạnh hiu là những nhà thơ Những thùng nước mắt chúng ta chảy về chị Matinđa đẹp xinh và đứng thẳng Người ta đã giết nhà thơ Người tù vĩ đại Các bạn anh em của Nêruđa các bạn hãy lên nòng súng gài vào tay áo những tấm băng đen như ngày xưa những tấm băng đỏ của đoàn quân du kích Một phút lặng im Một phút nguyền rủa thay cho điếu văn và thơ phúng Nguyền rủa lũ bay bọn khủng bố đê hèn Nguyền rủa! Ít người ra khỏi nơi tù đày Nguyền rủa những trò dân chủ Nguyền rủa bọn giết hại nhà thơ trong danh sách thống kê theo thứ tự a, b Nguyền rủa! Nguyền rủa! Để cho tôi, để cho tôi đến mộ Pablô Tôi đem đến một nắm đất Nga Tôi xin tỏ lời từ biệt Nuốt tức giận căm hờn tôi xin tỏ lời từ biệt nhà thơ cuối cùng của niềm tự do cuối cùng

Người tí hon bằng cát Песчаный человек

Человек бежит песчаный по дороженьке печальной. На плечах красиво сшита майка в дырочках, как сито. Не беги, теряя вес, можешь высыпаться весь! Но не слышит человек, продолжает быстрый бег. Подбегает он к Москве остается ЧЕЛОВЕ… Губы радостно свело остается лишь ЧЕЛО… Майка виснет на плече от него осталось ЧЕ… . . . . . . . . . . . . . . Человечка нет печального. Есть дороженька песчаная…Dịch (Viết cho thiếu nhi) Một con người bằng cát chạy trên con đường buồn Trên vai anh rõ đẹp thủng lỗ chiếc may-ô Đừng chạy mất trọng lượng anh có thể tan ra Nhưng anh không nghe thấy cứ tiếp tục chạy nhanh Chẳng có con người buồn có con đường bằng cát

Nói theo cách Rasul Gamzatov

Если б были чемпионаты, кто в веках по убийствам первый, — ты бы выиграл, Век Двадцатый. Усмехается Век Двадцать Первый. Если б были чемпионаты, кто по лжи и подлостям первый, ты бы выиграл, Век Двадцатый. Усмехается Век Двадцать Первый. Если б были чемпионаты, кто по подвигам первый, — нет нам равных, мой Век Двадцатый!.. Безмолвствует Двадцать Первый.Dịch Nếu có cuộc thi vô địch Sự giết người, thế kỷ nào xếp nhất Thắng cuộc chắc là thế kỷ hai mươi Thế kỷ hai mốt mỉa mai cười Nếu có cuộc thi vô địch Sự giả dối đê hèn, thế kỷ nào xếp nhất Thắng cuộc chắc là thế kỷ hai mươi Thế kỷ hai mốt mỉa mai cười Nếu có cuộc thi vô địch Thế kỷ nào đứng đầu về kỳ tích Thế kỷ hai mươi của tôi chẳng thế kỷ nào bằng Thế kỷ hai mốt lặng câm

Thư gửi Roberto Obregon Morales

Приглaшaю тебя, Обрегон. Во Влaдимир торжественный съездим, высоту его обретем, мой зaдумчивый Обрегон, обожaющий aперкот, революцию и поэзию! Ты из Мексики мне писaл, что мои переводы осилил, что нa сердце твоем печaль, и просил приглaсить в Россию. Где березa в полях пустых сбросит листья себе под ноги, вся прозрaчнaя, кaк бутыль, нa червонном круглом подносе. Приглaшaю тебя, Обрегон, но ты выбрaл иные гости, тебе мaшут с иных берегов Лоркa, Лермонтов, Мaяковский. И еще один, синеок, подписaл тебе приглaшенье, через лоб ему, кaк венок, нaдевaли петлю нaшейную. Не пaрнaсские небожители ждут тебя, коренaстый горнист,- гениaльные нaрушители полицейских, мирских грaниц. Приглaшaю тебя, Обрегон. Приглaшение опоздaло. Ты зaстрелен в упор стрелком У проклятой погрaнзaстaвы.Dịch Tôi mời anh, Ôbrêgôn – Chúng ta sẽ đi thăm Thành phố cổ kính Vladimir Ta sẽ ngự trên đỉnh cao, hỡi anh Ôbrêgôn suy tư Thích đánh bốc, thơ ca và cách mạng! Từ Mêhicô anh viết cho tôi Rằng cuối cùng anh hiểu được những bài thơ tôi dịch Anh đang buồn Và sung sướng được mời đến quê tôi Với nước Nga, cây bạch dương trên cánh đồng trống trải Rũ lá dưới chân mình Trong sáng như một cái bình Trên nền màu vàng một cái mâm tròn trịa Tôi mời anh, Ôbrêgôn Nhưng anh lại nhận những lời mời người khác Từ những bến bờ xa lạ gọi anh Lorca, Lermontov, Mayakovsky Và một người khác nữa có đôi mắt xanh Đã ký giấy gọi anh Như một vòng nguyệt quế Cái dây thòng lọng treo qua cổ Dáng vóc thấp lùn Những người chờ anh Không phải là những kẻ được tuyển chọn trên đỉnh Thi Sơn Mà là những kẻ quấy rối ngông cuồng Trên các biên cương thế giới Tôi mời anh, Ôbrêgôn Nhưng lời mời tôi chậm rồi, không kịp lúc Một tên lính gác Goatêmala Đã bắn anh ngã gục

Xưởng thủy tinh Стеклозавод

Сидят три девы-стеклодувши с шестами, полыми внутри. Их выдуваемые души горят, как бычьи пузыри.Душа имеет форму шара, имеет форму самовара. Душа – абстракт. Но в смысле формы она дает любую фору!Марине бы опохмелиться, но на губах ее горит душа пунцовая, как птица, которая не улетит!Нинель ушла от моториста. Душа высвобождает грудь, вся в предвкушенье материнства, чтоб накормить или вздохнуть.Уста Фаины из всех алгебр с трудом две буквы назовут, но с уст ее абстрактный ангел отряхивает изумруд!Дай дуну в дудку, постараюсь. Дай гостю душу показать. Моя душа не состоялась, из формы вырвалась опять.В век Скайлэба и Байконура смешна кустарность ремесла. О чем, Марина, ты вздохнула? И красный ландыш родился.Уходят люди и эпохи, но на прилавках хрусталя стоят их крохотные вздохи по три рубля, по два рубля…О чем, Марина, ты вздохнула? Не знаю. Тело упорхнуло. Душа, плененная в стекле, стенает на моем столе.Dịch Ba cô thợ thủy tinh Với những ống dài rỗng Những linh hồn được thổi phồng lên Cháy như những bong bóng Linh hồn có hình quả cầu Có hình ấm xa mô va Linh hồn hình tượng – Nhưng ở đây, về hình thái Linh hồn hiến dâng mọi của cải Marina say sưa Nhưng môi cô đang cháyMột linh hồn sáng tươi như con chim Không bay đi khỏi Ninen, cái máy nổ vừa rời Linh hồn thoát ra từ ngực trẻ Toàn thân cô như đón chào tình mẹ Để nuôi con hay để hít thở khí trời Hơi thở Phaina từ môn đại số Gọi lên được ba con chữ đã thấy khó khăn Nhưng từ miệng cô một thiên thần trừu tượng Bật ra biếc xanh Hãy cho tôi thổi vào ống sáo Để khoe linh hồn với khách Nhưng linh hồn tôi thổi không thànhTuột ra khỏi hình thức Trong kỷ nguyên chinh phục vũ trụ Cái nghề thủ công thật buồn cười Marina, sao em chỉ thở dài làm vậy Mà sinh ra một bông hoa đỏ tươi? Đang rời khỏi nơi đây những con người và thời đại Nhưng trên quầy hàng pha lê Những hơi thở nhọc nhằn của các cô đứng đó Đôi ba rúp, tính theo bảng giá Marina, sao mà em thở dài làm vậy? Thân thể bỗng bay lên Linh hồn nhập vào thủy tinh Trên bàn anh đổ bóng
Chùm thơ dịch Andrey Andreevich Voznhesenski của nhà thơ Tế Hanh thật đặc sắc và độc đáo. Qua bài viết chúng ta thêm phần ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa cùng sự nhiệt huyết, tận tụy với văn học của ông. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!