Nhà thơ Chế Lan Viên được rất nhiều người biết đến nhất là với kho tàng thơ ca của ông. Với ngòi bút tài hoa, lối thơ nhẹ nhàng đi sâu vào tâm hồn người đọc nên ông được rất nhiều vị độc giả quý mến. Trong số tập thơ đồ sộ của ông, có một tập được mọi người yêu thích hơn cả chính là tập ” Hoa Trên Đá II” của ông với những bài thơ vô cùng đặc sắcHôm nay, các bạn hãy cùng uct.edu.vn cảm nhận thêm về những bài thơ của Chế Lan Viên ngay sau đây nhé!

I. Tiểu Sử Nhà Thơ Chế Lan Viên

Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14/1/1920 ở Cam Lộ, Quảng Trị. Lên 7 tuổi, cả nhà chuyển vào Bình Ðịnh, bút danh Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Năm 17 tuổi, nổi tiếng với tác phẩm Ðiêu tàn. Năm 1939, Chế Lan Viên ra Hà Nội học, vào Sài Gòn làm báo, lại về Huế dạy học. Khoảng 1942, ra Vàng sao, viết tập truyện ngắn Gai lửa. Sau Cách mạng tháng 8, làm báo Quyết thắng của Việt Minh Trung Bộ… Năm 1949, Chế Lan Viên vào Ðảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều năm ông tham gia ban lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam, Ðại biểu Quốc hội các khoá 4, 5, 6, 7.Tác phẩm đã xuất bản:Tập thơ: – Gửi các anh (1955) – Ánh sáng và Phù sa (1960) – Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967) – Những bài thơ đánh giặc (1972) – Ðối thoại mới (1973) – Hái theo mùa (1977) – Hoa trên đá (1984)Truyện ký: – Thăm Trung Quốc (1963) – Những ngày nổi giận (1967) – Giờ của số thành (1967)Viết phê bình: – Phê bình văn học (1962) – Suy nghĩ và bình luận (1970) – Bay theo đường dân tộc đang bay (1976) – Từ gác Khuê văn đến quán Trung Tân (1980) – Nghĩ cạnh dòng thơ (1982)

II. Những Bài Thơ Hay Của Chế Lan Viên

Bình đựng lệ

Từ sâu thẳm không tên Vớt lên bình đựng lệ Người xưa ném nỗi đau vào bể Nhờ sóng triều vạn kỷ Lấp vùi trong lãng quên Dẫu không chu kỳ Như Tua Rua, sao Chổi Chiếc bình tuột khỏi tay nhân loại Lại về trở lại Nằm kia Cùng với hoa trúc đào đỏ chói Và sóng triều vào bãi Ném thia liaTôi từ xứ lắm bom Giáp mặt nghìn lần cùng cái chết Đứng trước chiếc bình con Vẫn cứ bàng hoàng Ồ! Ta đã nghe rao giảng về hư vô Tro tàn, gió rét Ăn miếng buồn trong thơ Uống nỗi đau ở triết Ờ, thế mà chả có gì mất hết Chiếc bình kia vẫn còn Vỏ ốc hoá vôi Rễ cây bám bình hoá thạch Nét hoa văn vẫn cườiDù hoa chỉ một ngày Dù sóng kia vạn tuổi Dù đời nhiều chuyện rủi Mà rất nghèo cơ may Chiếc bình xưa vẫn đó Người này vứt để quên Người kia cầm lại nhớ Thời này dù vứt bỏ Thì thời kia nhặt lên

Bộ ba

Trang giấy, ngọn đèn và anh Ba nhân vật một vở kịch hài nên rất bi thương Cố nhiên khổ đau không phải ngọn đèn Cả trang giấy nữa Cả hai, chúng trông cậy vào anh đó Anh có thể làm gì Chứ ngọn đèn không phí lửa Số phận trang giấy cao hơn chính nó Không phải thiêu mình trên ngọn đèn kia Ngọn đèn mà bóng đêm giết chết dễ dàng Chỉ hiu hiu gió Vì chỉ còn anh thôi là cứu cho tất cả Anh mà lắm lúc sóng bể, sao trời không hỗ trợ Tất cả phải tự lấy mình ra che chở Tự sâu thẳm đời mình, sâu thẳm, tận cùng sâu

Cờ

Con cờ anh và cờ khách quan đối thủ Chơi ván đời được thua chưa ngã ngũ Bỏ xừ anh! Anh và bóng anh Anh và bóng em Anh và số phận Anh đi một bước, nó đi một bước Anh đi con mã, nó đi con xe Anh ghểnh con sĩ, nó xơi con tốt Chả còn biết ai sau, ai trước Ăn, chả bao giờ ăn luôn Mà lỡ thua thì thua tuốt Đẩy cờ anh vào những thế chênh vênh Chiếu tướng thình lình Mà chẳng ai đến cùng anh Mách nước Nó là khách quan, nó là tai ương Nó là hạnh phúc, nó là văn chương Nó là bóng em, nó là bóng anh Nó chả là gì, nó là tất cả Ôi, bạn bè anh đâu cả? Để anh chơi chỉ có một mình!

Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh

Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu Đánh trận giặc cờ lau Thế mà không đâu Gặp Thập nhị sứ quân đầu rừng cuối quận Thành ra người dẹp loạn Rồi làm tướng làm vua Lắm chuyện nhức đầu Cho tôi về với cành lau Vàng vọ Về với con trâu nghé ngọ Có cặp sừng bỡ ngỡ Chiều buồn không biết cọ vào đâu? Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa Xa tiếng gió xạc xào Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ… Chỉ nghe danh vọng ầm ào Vinh quang xí xố Hoa Lư ở đâu? Hoa lau ở đâu? Hồn lau ở đâu? Hồn ta ở đâu?

Đo

Trời như ngọc, như hồn, như bể Ba cái sâu xa xanh có một màu Ôi, cái tội của muôn đời thi sĩ Đem hồn đo cho trời bể thêm sâu

Gửi trạng Thông họ Hoàng

Ông thì hay say Tôi thì quá tỉnh Mà ông đằm tính Tôi thì hay gây Thiên hạ người người yêu ông Tôi, thiên hạ ghét Gặp tôi, người ta lườm nguýt Nghe ông, người ta thông Thế mà lạ không? Hai đứa thân nhau mãn kiếp Từ đít nớp xăng ca-răng-xết (1947) Mà chưa phản thùng Nhớ cái chiều đưa ma gió rét Tiễn Diệu đi Vô Cùng Trên xe tang nhọc mệt Có cô Bạch Diệp Tôi ngồi bên ôngTôi sinh ở Châu Hoan Chứ đâu Quảng Trị? Lý lịch có lắm điều chưa cụ tỉ Rồi sau sẽ bàn Quảng Trị vốn là quê mẹ Gió Lào râm ran Thế thì khác quái gì Nghệ An Gió Lào ào ào ra bể? Huống gì Nghệ An là nơi mẹ có thai tôi Rồi đẻ Tôi khóc oe oe trong gió Lào rách xé Đẻ ở Châu Hoan xứ Nghệ Mẹ kêu “thằng Hoan” Tôi xin Thông nắm lộc lằng vì thế Nhớ bát canh lộc lằng Mẹ nấu ăn ngày bé Cái vị đắng lộc lằng như tuổi thơ đầy hương vị Nửa đời người chưa tan May mà ông giải oan Gửi cho tôi nắm lộc lằng quái quỉ Ăn một miếng nhớ trời nhớ bể Nhớ trăm thứ đầu cua tai nheo rồi nhớ mẹ Không phải cua, hôm ấy là tôm – tôm bể Húp muỗng canh, cắn quả cà xứ Nghệ Giòn tan Tôi còn để lại chùm nhau Mẹ chôn ở Nghệ An Có còn không nhỉ? Ông ở huyện Quỳnh qua Diễn Châu mấy tí Trông giùm cho nhau! Tôi ở Sài Gòn mới mười năm mà mọc rễ Thế mà cơn bão lay chùm nhau ở Nghệ Làm tôi đau Cũng bởi sinh ở Nghệ An Tôi tự ví mình với ông vua Thục Chạy thục mạng trước thời gian truy bức Bố tôi hay kể cho tôi Đền Công Mỵ Nương và máu cô nàng… Tuổi thơ tôi khóc Lớn lên tôi mới rải lông nga của mình ra bể Đông bể Bắc Từng trang từng trang… Thôi khéo tôi Sài Gòn lại đi nịnh Nghệ An! Thằng con Quảng Trị Lớn lên Nghĩa Bình Già ở Tân Bình Một cây mẫy rễ Một đời lang thangTôi biết ông có lắm nỗi buồn sâu Nên ông uống rượu Lại đổ cho tôi Phượu! Chớ có mà hại nhau! Thề có tóc hoa râm nay muốn bạc trên đầu Tôi không yêu thơ ông lúc nào hả? Hả? Yêu cái câu sức người hóa thân cho sỏi đá Yêu cái câu phi ngựa lên đèo Thẩm Mã Yêu câu Bắc trộn vào Nam trong sóng Cửa Tùng Yêu câu Nguyễn Du nấm mộ giữa đồng Yêu câu hoa hồng Ngát mùi hương cúc Thoảng chút mùi sắc dục Chưa nhiều trong thơ ông Cố nhiên là thơ ông không giống tôi loanh quanh luất quất Loa Thành mê cung Cũng không như của cô kia õng ẹo õng à, nà nuột Hay như ông nọ lộc cốc, bà kia lung mung… Thơ ông chân chất Lúa lên hương giữa đồng Thơ ông suối trong veo Chảy tấm lòng rất thật Của một người rất yêu Rất yêu mà chưa đựoc ngủ Bên hoa cho đủ liều Vì ông phải thức Đón câu thơ gió vèo Vì còn phải lo Viện, lo văn, lo đời, lo sử Lo giá-lương-tiền trong rổ chợ Lo trăm thứ của cuộc đời dây nhợ Đâm ông buồn nhiều Rồi ông cứ ngỡ nốc rượu vào sẽ đỡ Cái bệnh ở lòng, thuốc cho ở cổ Cạn chén này, chén khác ùa theo Chết mong mình chôn ở Lái Thiêu Đợi giờ trúng tủ Quả chín như những chùm môi son Nam Bộ Lộp độp rụng xuống mồ ông đều đều Ông lãnh đủ và dùng đủ Cho hồn phiêu diêuXứ Nghệ mình từng đưa dân lên rú Xứ Nghệ mình gieo mạ ngoài sân Xứ Nghệ mình không cù lần Đặt vòng, tháo vòng bất tử Xứ Nghệ mình giỏi đủ Giàu cá rồi giàu gỗ Chừ lại giàu ông Thông Văn chương hơn tú, cử Bút châm hay không châm Trữ tình hay không trữ Làm văn như Đặc công Mần chi, ông chẳng mần Giá thi trước sân rồng Đậu Trạng sẽ là ông Rồi thì ông đi sứ Cờ quạt che đầy đồng Thức nhắm đâu phải lạc Mà gỏi gà, nem công Ông là Trạng đất Quỳnh Lưu câu văn có võ Ông là ông Trạng đỏ Đỏ ấy nhưng lại tình Ông thôi làm Viện trưởng Phải đâu vì thiếu “chưởng” Về nhà viết chân dung Chân dung và chân tướng Kiếm tiền mua rượu dùng Tướng ông thế mà hung Thừa viết văn học sử Cóc cần văn cử tử Yêu ai thì khuyên vòng Cái vòng khuyên chóe đỏ Mà ghét thì bỏ xó Đầu hay chân mặc họ Bút và lòng không dung Bút và lòng không rungThịt cầy hầm với mẻ Thịt vịt chấm muối gừng Mực nướng nướng thơm lừng Bánh đa rồi rượu đế… Nâng chén lên lễ mễ Hoan tôi xin thưa rằng: – Thưa chị Thông lưu ý Vợ tôi – mụ Thường – khuyên anh Thông say đừng say bí tỉ Có say, say cầm chừng Có uống, uống lưng lưng Mở mắt ra he hé Nhìn lấy đời một tí Sau đó bỏ rượu dần Rồi bỏ luôn một thể Mạnh chân và khỏe tay Xe đạp đạp như bay Không rượu mà cứ say Vào đời không trúng gió Thơ càng hay hơn cũ Anh Hoan em đề tựa Làm sao mà không hay?Tôi lặp lại như vẹt các lời phu nhân tôi dặn Bỗng ngập ngừng thấy gay! Kìa đầu Thông bây giờ bạc trắng Thay vào rượu giải sầu, ta tính sao đây?

Ích gì?

Khéo rồi mất giống bò sữa, họa mi, ngựa đua, gà chọi… Khó gì? Ta không giữ, không nuôi thì nó mất Giống các nhà thơ cũng vậy Giống chồn xạ hương không ai gặp Tuyết trên non cao không ai thấy Giống nàng Tiên, ông Bụt hiện trong mơ… Mà chả cần ai giết Chỉ thôi yêu là nó chết Chỉ cần bâng quơ vu vơ đặt ra câu hỏi Trịnh trọng cái bâng quơ vu vơ ấy Hỏi rằng: Ích gì họa mi? Ích gì bò sữa? Ích gì xạ hương? Ích gì thi sĩ? Ích gì nàng Tiên? Ích gì cái hôn? Ích gì giấc mơ? Ông Bụt ích gì?!..

Kỷ niệm Nguyễn Du

Khi ta kỷ niệm Nguyễn Du chả ích gì cho Nguyễn Chả qua để kẻ yêu thơ khỏi tủi trong lòng Ông đã hoá mây trắng ngang trời hoài niệm Hoá ra Kiều cao gấp mấy đời ông

Lệ hồi âm

Lệ ta nhỏ trên Kiều ba trăm năm sau Ích cho Nguyễn ba trăm năm trước Ông vui thấy ta còn biết khóc Giữa cuộc đời chưa hết bể dâu Bất tử hay không, Nguyễn cóc cần Thiên tài quen sống đời mây cô độc Tuổi tên là phù vân Ông chỉ mong ta bền một chữ tâm Nhỏ một giọt sương người bên khóe mắt Cái Nguyễn chờ là giọt lệ hồi âm

Lộn trái

Ngày nhỏ khi áo tôi cũ rồi Khóc mẹ đòi áo mới Mẹ chả có tiền may Lấy áo kia lộn lại Xấu cũ giấu vào trong Xênh xang khoe phía trái Trái nhưng mà lại mới Hai mẹ con đều mừngTôi làm thơ nửa đời Thơ đã già đã tãi Như con chuột quay vòng Một điệu quay vạn lần Chuột mỏi, người cũng mỏi Làm thơ như đồng thuộc Sức ì luôn trói buộc Cái cũ đã thành thần Cóc khô thành tài năng! Hay là ta lộn trái May có gì mới chăng? Xưa nghiêm túc nghiêm trang Giờ nửa khôn nửa dại Lộn lèo trong gió trái Theo lời dạy Chagall Thử đưa xiếc vào văn Chơi trò hề lăng nhăng Bớt cái điều trọng đại Đấu kiếm và đu bay Cưỡi ngựa và leo dây Bắt chước đào lộn hột Vỏ tâm hồn lột tuốt Cho thân thể phô bày Mai-a kêu: “Quay trái!” Còn tôi thì lộn trái Bớt bớt điều kiêng khem Bạn bè ghé mắt xem Gật đầu khen: Phải! Phải! May máy và máy may Giờ mày mới là mày!

Nhà không trần

Phạt bảy nghìn tiền điện Lấy gì trả bây giờ? Bán đi bảy tấm ván Bạn cho làm trần nhàCảm thông nhà thơ nghèo Nửa cho và nửa bán Sợ nhà lợp mái tôn Chạy trời không khỏi nắngNhững trưa hè nóng bức Nghĩ nhiều càng thương thân Tuổi lớn vẫn viết được Miễn nhà có cái trầnChung quanh bọn tham ô Xây biệt thự lớn, nhỏ Còn lên lớp cho thơ: “Cần chịu đựng gian khổ”(!)Sáng, ta viết ngoài sân Nhờ cây cho bóng mát Trưa, ăn cơm dưới thềm Mồ hôi có gió quạtDầu vậy vẫn khoái trí Được nhiều người cực hơn Khen: “Anh mà còn thế Việc quái gì em buồn?”

Tháp Bay-on bốn mặt

Anh là tháp Bay-on bốn mặt Giấu đi ba, còn lại đấy là anh Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình

Thời gian nước xiết

Cái vòng tròn của vành xe, của vầng trăng Làm anh khổ Nhưng thời gian như thạch nhũ Thời gian ùa nước lũ Thời gian triệu năm cho uranium phóng xạ hóa ra chì… Thì ích nỗi chi? Phút nào anh cũng có thể hóa ra đất ra chì tức khắc Gió thổi mây bay bất trắc Lúc nào mà không tử biệt sinh ly Lúc nào anh cũng có thể thành Hàn Mặc Tử, Bích Khê… Phải tranh thủ làm thơ giữa hai chớp mắt Anh có phải Thánh Gióng đâu mà chờ lên mình ngựa sắt May lắm trong thơ cầm một cái roi tre Cỡi tàu ngựa rách toe Lá chuối! May lắm nữa, cầm cờ lau Đinh Bộ Lĩnh thuở nào Tìm thập nhị sứ quân mà đào Tài năng ở đâu? Tài năng ở đâu? Cho tôi với! Trên trời cao hay dưới bể sâu? Chỉ cho tôi để tôi tiến tới! Khốn nỗi Nó ở bên kia bể thời gian không ai chờ đợi Tôi qua đấy trên một sợi dây không phải là cầu Vậy mà còn phải lần từng chữ từng câu Rõ tội! Ngẩng nhìn lên tóc xanh chưa hoa râm đã bạc ngang đầu Chưa tỉnh dậy, hoàng hôn đã tối Vùng có những ngàn sao lừa dối Những Ngân hán, Ngân hà Vịt lội Những Sao Hôm, Sao Mai chờ đợi Mà rồi rụng hết trước tiếng gà nôn nao Xua đuổi Viết đi! Viết đi! Viết! Viết! Thời gian nước xiết Còn trơ lại cái đầu lâu Hămlet Viết thêm! Viết nữa! Viết vào!

Tu hú có cần đâu?

Tặng cho ba con gái, nhưng riêng tặng Vàng Anh là đứa làm thơ (C.L.V.)Cẩn thận nhé! Cẩn thận nhé! Kẻo rồi có lúc mùa vải đỏ và chim tu hú Đến lúc nào, đi lúc nào, ta không biết Trời xanh, hoa mai, chim nhạn… Về lúc nào, đi lúc nào Ta chẳng hay cho! Ta cúi xuống đất Hí hửng nhặt tìm từng cái kim rơi vụn vặt Mà để lồng lộng trên cao Những mùa trái, mùa chim bay mất Những mùa yêu, mùa hạnh phúc bay vèo! Chim tu hú có cần đâu Ta nghe nó hay không nghe nó Nghe nó, ta thành tình nhân, thi nhân, triết học… Còn nếu như không nghe Mà ù ù cạc cạc Thì hết mùa vải này vẫn còn vải khác Bên sông đỏ rực Bất cần ta, vải chín đón chim về

Vọng phu (2)

Ai không hóa đá Vọng Phu một phút giây nào đó trong đời: Vọng Phu tình ái Vọng Phu Thơ Vọng Phu Lý Tưởng… Cứ gì nàng Tô Thị bế con Lên núi chon von Mới là người vọng Vọng ư? Ai có một chân trời Và mất cái gì sau đó phía chân mây

Xâu kim

Cái trò chơi quái quỉ Tay cầm kim, tay cầm sợi chỉ Vừa chạy vừa xâu không một phút dừng Chạy một đời rụng hết cả thanh xuân Kim run run mà chỉ rung rung Có lúc chính là kim ngọ nguậy Có lúc chỉ lọt vào rồi lại sẩy Xâu vừa xong, gió tuột nửa chừng Lỗ kim… lỗ kim trước mắt Oan khiên oan khuất Ta chạy một đời không dứt Vẫn toi công!Cây kim Mozart xâu một cách bất thần Lý Bạch xâu như không hề nghĩ tới Rimbaud xâu bằng thiên tài hoang dại Nguyễn Du xâu trên đầu mái tóc hoa râm Holderlin điên không xâu mà chỉ lọt… Toàn là cách xâu của những thánh thần!Tôi tài năng chưa đầy nửa giọt Có hộc tốc chạy đến hết chân trời cũng là đồ bất lực Sao chỉ ấy, kim kia tôi vẫn phải cầm?
Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả những bài thơ đặc sắc không kém phần sâu lắm của tập thơ ” Hoa Trên Đá II” của Chế Lan Viên. Hy vọng các bạn sẽ cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc của bài thơ. Cảm ơn các bạn đã luôn đồng hành cùng chúng tôi trong suốt thời gian vừa qua!