Thơ Vũ Hoàng Chương được đánh giá cao. Bởi ở đó có sự sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc và có chứa nhiều sắc thái Đông phương. Thêm vào đó đọc những vần thơ này ta có thêm cảm nhận về những vần thơ có sự giác ngộ. Đó cũng chính là tư tưởng và mạch cảm xúc chủ đạo của tập thơ Lửa từ bi (1963).

Lửa từ bi

Kính dâng lên BỒ-TÁT QUẢNG-ĐỨCLửa! Lửa cháy ngất Toà Sen! Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành Thơ, quỳ cả xuống. Hai Vầng Sáng rưng rưng Đông Tây nhoà lệ ngọc Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc, Ánh Đạo Vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên…Ôi, đích thực hôm nay Trời có Mặt! Giờ là giờ Hoàng-Đạo nguy nga. Muôn vạn khối sân-si vừa mở mắt Nhìn nhau: tình huynh-đệ bao la. Nam mô ĐỨC PHẬT DI ĐÀ Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?Thương chúng sinh trầm luân bể khổ, NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ PHẬT-PHÁP chẳng rời tay… Sáu ngả luân hồi đâu đó Mang mang cùng nín thở Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay. Không khí vặn mình theo khóc oà lên nổi gió NGƯỜI siêu thăng… giông bão lắng từ đây. Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ-Đề.Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc! Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi! Chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI.Rồi đây, rồi mai sau, còn chi? Ngọc đá cũng thành tro lụa tre dần mục nát Với Thời-Gian lê vết máu qua đi. Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT Gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.Ôi ngọn LỬA huyền vi! Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác Từ cõi Vô-Minh Hướng về Cực-Lạc. Vần điệu của thi-nhân chỉ còn là rơm rác và chỉ nguyện được là rơm rác Thơ cháy lên theo với lời Kinh; Tụng cho nhân loại hoà bình Trước sau bền vững tình huynh-đệ này.Thổn thức nghe lòng Trái Đất Mong thành Quả Phúc về Cây. Nam-mô THÍCH CA MẦU NI PHẬT Đồng loại chúng con nắm tay nhau tràn nước mắt tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây.

Người với người

(Thông-điệp của MỘT gửi cho TẤT CẢ)Chúng ta đều là NGƯỜI Đều thế đứng cao sang đều sắc máu đỏ tươi Đều hãnh-diện trên muôn loài ngự trị, Nhưng buồn thay… một phút nào kia nếu không gian chẳng còn dưỡng khí Cũng đều ngã ra chấm hết cuộc đời. Sao các bạn, các anh, các chị Ở nơi đây và tất cả những đâu nơi Lại quên được – sao mà quên được nhỉ? – Rằng “thịt da ai cũng là NGƯỜI”?Nhân loại đã từng rên xiết Đói rũ xương và khát cháy thiêu môi, Quằn-quại với nhu cầu khẩn thiết Qua bao thế kỷ nay rồi. Tật bệnh, tai ương, điêu tàn, huỷ diệt, Biển mặn ư? – Máu, lệ, mồ hôi!Chính các chị, các anh, các bạn Cũng có lửa khắc sâu lên trán Từ sơ-sinh hai chữ CON NGƯỜI Cũng mang nặng bùn nhơ kết khối phàm thai, Cũng dương mắt bao phen giữa dòng sao thác loạn Cũng lê chân qua mờ mịt đêm dài, Cũng da thịt biết đau từng vết rạn Ở mỗi tế bào phân tán Khi nắng đốt trên đầu gió quất trên vai. Nhìn nhau, đây đấy một loài; Xót xa nhau chút hình hài với nao!Nhớ xưa Nhạc, Huệ, Cùng tranh ngôi cao Một lời thống thiết Muôn đời gởi trao: “Nồi da nấu thịt Lòng em nỡ nào?”Một con ngựa đau cả tàu nhịn cỏ, Loài vật kia chẳng cũng dạy NGƯỜI sao? Búa nện xương kêu, gậy đập máu gào Đáng lẽ phải vang rền tim óc bạn, Và chát chúa hồi thanh trong huyết quản Dựng gươm đao cắt chính thịt da mình. Lẽ đâu các bạn làm thinh Nhìn CON NGƯỜI hiện nguyên hình ĐAU THƯƠNG.Các chị các anh còn biết khóc Mỗi xa người thân, chia uyên ương, Còn biết những canh dài trằn trọc Nhớ quê nhà chìm trong khói sương, Còn trang sử ông cha mở đọc Biết rưng rưng sôi chí quật cường, Hẳn còn tim còn óc Còn nhân luân còn linh tính còn thiên lương; Sao có thể đeo vết nhơ làm ngọc Xức mùi tanh làm hương? Kìa máu, máu! Vết nhơ ấy lột da đi không tróc Mùi tanh ấy quyện vào hơi vào tóc Như mọc lên như sờ thấy trong gương; Bóng mình chăng? Hay đó Quỷ Vô-Thường?Không, ngàn lần không; Chúng ta không phải Quỷ! Mà hết thẩy các anh các chị Với tôi cùng một loài NGƯỜI, Tuổi ý-thức đã hàng trăm thế-kỷ Dù, nói cho khiêm nhượng, mới HAI-MƯƠI. Đau khổ đã cắt ngang vào não tuỷ Nghĩa TỪ-BI xây dựng cứu đời; Thì tin rằng mai đây và khắp nơi Bóng HOẠT-PHẬT lung-linh đài TỬ-SĨ; Muôn ngọn hải-đăng Tỉnh hồn cơ-khí, Bằng ánh sáng “vô chung vô thỉ” Soi đường Khoa-học giữa mù khơi. Những mầm mống TƯƠNG-TÀN, KỲ-THỊ Như lá mùa thu phải rụng rơi. Nhân-loại hiển chân-thân cũng tìm ra chân-lý: Đức HIẾU-SINH vằng vặc ngôi Trời…Vững lòng tin ở XA-VỜI, Bàn tay chẳng nhuộm máu NGƯỜI, giơ lên!

Gẫy một cành mai

Lòng son búa sắt Tay chặt bàn tay Dâng lên cúng Phật.Máu hoà mưa bay… Chén cơm thường nhật Oan khổ đã đầyGiờ đây, Mai đây Một còn một mất Trời đất cùng hayBúa năm nhát, nát bàn tay, Xé tung xương thịt cho bay lời nguyền.Bàn tay NGUYỆN-VỌNG Chặt đi còn nguyên Chẳng BẠO mà ĐỘNG Một ngăn mười truyềnTay PHẬT năm ngón Giam cả Tề-Thiên Núi lật năm ngọn Không tha cường-quyền.Đó đây mài sẵn Long-tuyền Búa năm nhát, phát lời nguyền cho Mai!lời nguyền son sắt lạy PHẬT-NHƯ-LAI một điểm linh-đài cứu cho đừng tắt.Để những ai ai Có mắt mở mắt Còn tai lắng tai.Nhìn thấu xương Mai Tấm lòng Trời Đất Nghe vang búa chặt Nỗi đau cùng loài…Biển Đông, ải Bắc, non Đoài, Vọng về Nam, thét cho dài hồi thanh!Bàn tay nguyện nối Trường-thành Nửa chừng xuân, gẫy một cành sá chi.Lòng Mai hướng cửa TỪ-BI Khác đâu lòng ấy hoa quỳ hướng dương.Chín phương mười phương Giữa cuộc nhiễu nhương Đã về hợp nhất…Gió tung cờ phất Thề lật bạo cường Khẩu hiệu lên đường: Không lùi chẳng khuất!Dưới lằn roi quất Vung gậy KIM-CƯƠNG Đối diện Ma-Vương Một còn một mất.Oan cừu chứa chất Mờ mịt Âm Dương Nghẹn máu quằn xương Tím gan ứ mật;Lửa bùng cao ngất Từ rẫy từ nương Từng chợ từng trường Khắp trời khắp đất,Cháy lên rần-rật Thành nén tâm hương.Xin rủ lòng thương Muôn loài muôn vật, Giải thoát tai ương; A-DI-ĐÀ-PHẬT!

Một cuộc bể dâu

Tập Kiều)Cơ trời dâu bể đa đoan Nỡ đày đoạ trẻ càng oan khốc già. Phật-tiền ngày bạc lân la Đầy sân gươm tuốt sáng loà… thất kinh! Gió mưa âu hẳn tan tành Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai. Hằm-hằm sát khí ngất trời Hết điều khinh trọng hết lời thị phi. Con ong cái kiến kêu gì Trông lên mặt sắt đen sì… lập nghiêm. Vì ai rụng cải rơi kim? Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng! Vì ai ngăn đón gió đông? Lạ gì một cốt một đồng xưa nay! Xem gương trong bấy nhiêu ngày Điếc tay lân tuất phũ tay tồi tàn. Một nhà vinh hiển, riêng oan… Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người! Phật-tiền thảm lấp sầu vùi Nghe tin ngơ ngác rụng rời xúm quanh Qui Sư qui Phật tu hành Ai ngờ một phút tan tành thịt xương! Người yểu điệu kẻ văn chương Gan càng tức tối dạ càng xót xa. Giáp binh kéo đến quanh nhà Đang tay rập liễu vùi hoa tơi bời. Đau đòi đoạn ngất đòi hồi Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh. Ba cây chập lại một cành… Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên. Truyền quân lệnh xuống trướng tiền… Sự này hỏi Thúc Sinh – Viên mới tường.Xiết bao đoạn khổ tình thương Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi? Sư rằng: Phúc hoạ đạo Trời, Giẽ cho thưa hết một lời đã nao. Đường xa chớ ngại Ngô Lào Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần. Tin sương đồn đại xa gần Một xe trong cõi hồng trần như bay. Lão kia có giở bài bây Cũng là mặt dạn mày dày khó coi.Còn non còn nước còn dài Quây nhau lạy trước Phật đài… tá sinh. Thêm nến giá nối hương bình Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.

Dư ba

Sống giữa chiêm bao vạn mối tình Trắng tay mình lại vẫn riêng mình Lưỡi gươm mài nguyệt còn vô dụng Ngòi bút xuyên mây cũng bất bình Dâu bể nghe đau lòng trái Đất Gối chăn đợi ngát tiếng hoa Quỳnh Nhắn ra muôn dặm về muôn thuở: Vì cái TÂM nên luỵ cái HÌNH.

Hoa nào ấm mộng?

Từ hoa vương giả đến hoa hèn Bướm cũng vừa say đã nhạt men Giận khắp loài thơm lòng chẳng ấm Còn chăng đâu đó LỬA ĐÀI SEN!

Tận thế rồi chăng?

Phật nắm bàn tay lại… Bỗng dưng Kiếp người ba ngả tối như bưng Đường Yêu, đường Sống, đường May Rủi Xa mãi đường Tu chẳng chịu dừng.

Vòng đai vương miện

Bạo lực cười lên một chuỗi dao Sáng choang vương miện giữa trời sao Một mai Trái Đất này tan vỡ Há bởi Vòng Đai Phóng Xạ nào!

Khoa học loài người

Dưới trận đòn tra, sức điện quay Tiếng kêu vỡ ngực xé trời bay Nửa phần nhân loại ngây-thơ hỏi: Một vệ-tinh nào phóng nữa đây?

Tiếng khóc giờ đây

Phật có bàn tay dẹp bất-bình Cả ngàn con mắt chiếu vô-minh Chỉ đôi tai Phật, sao nghe xiết Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh!

Trời cao Phật hiện

Trời lưu ly hiện Phật Kim Cương Mây bạc thân vàng nét tỏ gương Quạ lửa càng sôi cơn thịnh nộ Càng in bóng ngọc xuống mười phương.

Lưới trời lồng lộng

Nghe tin Quốc-Giáo bị gia-hình Ấn-Độ-dương kêu biển Thái-Bình Vạn ngả nước dâng về hỏi tội Năm mười miệng cũng hết thanh minh.

Diều cháy lưng trời

Vận nước dầu sôi trải nấu nung Nhiệt-tâm càng đỏ nén hương chung Lá bên Ngô dẫu còn no gió Gặp lửa TỪ-BI cũng cháy bùng.

Linh sơn Phật khóc

Phật ngự Tòa Sen… khối xót thương Vỡ ra thành lệ, ngấn còn hương Lung linh giọt ngọc từng giây phút Tẩy sạch ngai vàng bóng Quỷ-Vương.

Lửa gọi đồng thưa

Ngọn lửa Từ-Bi gọi cảm thông Bảy lần sôi máu khắp non sông Đàn con Đức Mẹ quỳ, rơi lệ Chuông Thánh-Đường vang dội tiếng đồng
Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương hay mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ cùng với bạn. Thông qua bài thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ này. Cũng như hiểu thêm được những giá trị mà các bài thơ này muốn chuyển tải.