Trong khoảng thời gian từ 1963 cho tới 1977 nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã đem cả thân mạng và sự sống của mình để tham dự vào cuộc đấu tranh bất bạo động. Điều này nhằm đòi hòa bình tại Việt Nam. Đó cũng chính là lý do ông từng nhiều lần bị tù tội thời gian đó. Và đọc Bút nở hoa đàm ta có thể cảm nhận sâu sắc được điều này. Dưới đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập thơ này.

Bánh xe Diệu Pháp

Đàn chim kêu thương Cánh nặng chĩu một trời oan khuất. Ngóng về Nam, Về Bắc, Cả hai phương sừng sững dựng mây thành. Sân chùa cây bật gốc Triền miên tử khí vây quanh. Giờ cúng trái hãi hùng mưa gió Từng tiếng kêu bé nhỏ rào kẽm gai xé nát hồi thanh.Cá dưới khe vọng về Đông, khắc khoải, Sao lắng nghe vào màu xanh Của sông phiêu lưu của biển tung hoành Chỉ thấy nước như nước hồ nước ao nằm trong tù độc thoại? Muôn trùng cửa khoá hơi bốc lên mùi máu còn tanh… Biển có chừng bao nhiêu góc? Sông chia làm mấy mươi ngành? Bọc trong gai, nghẹn lời kinh Giạt về đâu, phút lâm hình nửa khuya?Nhưng đá núi kia Và lá rừng đây Căm thù gan héo nát Mồ hôi nước mắt tháng năm đầy; Thoắt đã cùng chim cá Vùng lên tất cả Niệm mười phương Phật hướng về Tây.Là có hôm nay Những người tu hành Cản tay bạo ngược liều bom đạn Nổi lửa Từ Bi giãi sắt đanh. Tháp chín tầng cao đường dài sáu tháng Năm mầu Cờ phất tương lai xanh. Phật hiển hiện; muôn loài vững bước Ào lên xiềng xích tan tành. Trời quay mặt lại, Sông núi hò reo cười sảng khoái, Kìa xem: Ác quỷ đã rơi nanh!Ôi niềm ngây ngất Khói dâng mây lành! Trang sử Việt cũng là trang sử Phật Trải bao độ hưng suy dẫu nguy mà chẳng mất Lại giờ đây sáng ngời uy danh Hàng chữ số 2 5 0 7 (Hai, Năm, Không, Bảy) Khắc bằng lửa vào lòng đây lòng đấy Nơi trái tim Bồ Tát truyền sang tinh anh… Cỏ cây nhập hội Chim cá đồng thanh Vần thơ sóng nổi Dư âm nhiệt thành Rằng: Xe Diệu Pháp ba ngàn cõi Một cõi này thơm vết đấu tranh.

Trường ca Phật Đản

Đã chín trăm ngàn kiếp phù du trôi qua Từ phút Tình thương nhập thể chói loà. Trên giòng Thời gian hợp tan bao nhiêu đời tinh đẩu; Tới nay: thế kỷ Hai mươi sáu Vừa Tám tuổi phương phi. Lũ chúng con ngửa mặt chắp tay quỳ Hướng nẻo sông Hằng nước Phật, Cất tiếng niệm ngân vang chín tầng trời đất: Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu Ni!Cây núi Ngự kết ngôi vàng Phật ngự Nước sông Hương mùi đạo ngát hương đưa Một lời chuông gọi Muôn ngàn tiếng thưa. Nắng Trường Sơn đồng vọng Hồi thanh Bến Hải mưa. Từ khắp chốn, vượt dầu sôi lửa bỏng Về nơi đây, mừng tủi mấy cho vừa! Cầu Bạch Hổ nhịp vang gió sóng Chợ Đông Ba đằm vị muối dưa; Vút cánh dơi bay, này quá khứ gửi âm thừa!Hơi đất mồ hoang về, lời lời ẩm ướt; Lằn roi ngực lạnh về, tiếng tiếng u ơ. Và một giọng cười điên lảo đảo Xoay ngược Địa cầu trở lui vòng quỹ đạo, Dốc thời gian đổ ngược hướng huyền cơ… Chúng con chợt tơi bời tâm não Nghe trong da thịt sững sờ. Máu khóc xương kêu trời ơi kìa: bàn tay ai bão táp? Cho loài kim nghiến răng bánh xe chà đạp, Tám chồi măng rụng xuống đêm ngàn thu bơ vơ… Ôi, bây giờ tưởng bấy giờ; Vui thành công lại hồn thơ nghẹn ngào!Dĩ vãng chúng con: chuỗi hình nhân què quặt; Mà Tương lai, mà Hiện tại… e còn nguyên nước lửa gươm đao! Bên tai như thét như gào Những giây phút, những tháng năm tàn tật, Lũ mê muội hiểu gì đâu lẽ còn lẽ mất, Rồi đây nhân loại ra sao? Lạy đấng Thế Tôn, xin trỏ đường vào Thế giới của Tình Thương Đích Thật! Cảnh giả thân hờ lây lất Xa vời bến Giác chừng bao?Thoắt đâu vầng nhật Bè mây nâng cao; Tiếng nổ chớp giật Mười phương hải trào. Nghe dội xuống tận lòng sâu trái Đất, Tung ra hoà tấu khúc thần giao; Và ức triệu rễ Bồ đề tự muôn cành phơ phất Rủ xuống trần tâm đang mừng tủi nao nao; Lòng chúng con; sa mạc khát mưa rào! Kể đã ba mươi ngàn bảy trăm tuần Trăng đầy Giác hải, nguyệt tròn Pháp luân, Nay ánh sáng lại đêm rằm ngọt mật. Cõi Ta bà: thấy chăng ngày đản Phật. Tám nguồn công đức thuỷ dâng về thanh khiết băng trinh? Tám chồi măng: tám hành tinh Nổi trên bọt sóng, hồi sinh huy hoàng.Đâu còn vết máu, Chỉ thấy hào quang! Lòng tin mấy thuở đi hoang Đã đến lúc về ngôi: Chín tầng Tháp Báu. Thiền nguyên, thế kỷ Hai mươi sáu Vừa tám tuổi hôm nay, Giữa khoảng trời Nam Đất Việt này! Lời tụng niệm vượt âm giai cao nhất Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu Ni Phật! Đón dư âm ngừng núi lở sông bồi… Càn khôn treo nhịp Luân hồi Chầu quanh một bóng Phật ngồi từ bi.

Điệp khúc

Một tiếng hô lên Rừng người quỳ xuống Chầu quanh Bảo toạ Kim Liên. Cành cỗi mầm non đều hớn hở. Lá vàng xanh nín thở, từng cây giây phút nhập thiền. Sông trầm tư, bến sầu miên Vụt trở giấc, hồi sinh trong Quốc giáo. Đài chót vót nở hoa Tái tạo Uy nghi khoáng hậu vô tiền.Sỏi đá cũng êm gối quỳ niệm Phật; Tám mươi vạn tín đồ chấp tay nhìn xuống đất, Xuyên qua bảy triệu thước bề sâu, Chỉ trong nháy mắt Đã cùng gặp nhau Tận khối lửa trung tâm Địa cầu. Tiềm thức cháy lên, vọng về cảm giác, Mỗi tế bào rung thành nốt nhạc Thể hiện lời kinh ngợp ánh đạo mầu. Những tia mắt phóng đi, vượt cả mấy muôn tầng nhiệt độ, Cũng hồi chiếu dư quang về cửa sổ; Ôi, từ đây nhục nhỡn có minh châu!Lại một tiếng hô Rừng người thẳng tắp Trông ra, kìa! muôn trái nhựa bay lên; Cùng đàn chim vừa được phóng sinh nhịp nhàng bay lên, Cùng khói hương ngạt ngào bay lên… Cờ Phật mở tung ra từ những chùm bong bóng; Trời thủ đô năm sắc rợp phi thuyền! Gió mười phương, máu toàn thân nổi sóng, Biển người dâng lên… Ôi, những thuyền bay hay thuyền Bát nhã Cao vời, cao mãi, vượt ra ngoài vũ trụ vô biên, Chở theo lẽ Từ bi Hỷ xả Từ đỉnh Tuyết giải trường sơn Hy Mã Trước đây 2 ngàn 5 trăm lẻ 7 năm Tháng tư ngày rằm Đã hiển hiện kim thân Phật tổ. Chân lý bay về đâu sức sống niềm vui bay tới đó. Ngoài càn khôn còn ức triệu càn khôn, Sỏi đá nhìn theo mát rợi linh hồn…Bỗng đâu từ thinh không Mưa xuống những Bánh Xe vàng bạc Ruổi bình minh rẽ nếp mây hồng; In dấu lửa Pháp luân vừa khởi sắc Nhô lên ngời chói phương Đông; Tiếng niệm Phật, Bánh xe quay vang dội, Lơ lửng triền cao dẫn nẻo lá khô về cội, Lăn qua rừng thẳm đưa đường mạch suối ra sông. Lũ chúng con ngẩng đầu trông: Dĩ vãng, Tương lai, một bóng gương lồng. Kìa dĩ vãng: triều Đinh triều Lý, Biển lúa chín âu ca đời xanh bình trị, Tổ tiên đều có Phật trong lòng! Kìa tương lai, dặm dài xa vút mắt; Nhưng vẫn tiếng chuông chùa dìu dặt Mở trăm ngàn lối cảm thông, Giải thoát mê tân nhân loại hoà đồng. Nòi giống Việt hôm nay vào hội, Niềm tin ấy, chẳng sức gì lay nổi! Lá mơ về cội Suối tìm ra sông…Hương khói mênh mông Rừng người chuyển gót; Đoàn diễn hành tám trăm ngàn như một Bước lên tề chỉnh uy nghi; Từng bước, từng bước, Lệ ứa tràn mi; Lòng thêm gần Phật, Đường xa kể gì!… Ôi, con đường tiến tới Lửa Từ Bi! Nơi hào quang sáng rực; Nơi trước đây vị thần tăng Quảng Đức Tự đốt mình lên tự huỷ mình đi Cho cõi nhân sinh mát bóng Phật kỳ!Hãy đặt gối xuống Ngã Tư lịch sử, Một địa điểm chói loà vinh dự Trên bản đồ thế giới từ nay; Việt Nam đâu? Nước có Ngã tư này! Ngã tư này! Ngã tư này! Lửa dâng lòng nước, hương bay về nguồn…

Tiếng thơ mùa loạn

Lẽ Từ Bi truyền ra cho Bạo Lực Quỳ xuống nơi đây! Dưới gót ngươi máu lệ tràn đầy. Và xương tuỷ chúng sanh khúc đã khô queo khúc còn dính thịt. Xương máu ấy từ lâu rên siết; Mẹ Việt Nam trời! đau đớn dường bao! Ngươi lại hôm nay quỷ sứ nhập vào Tay chém giết lộ nguyên hình rắn rết Toan xông lên chà đạp nữa hay sao?Hãy quỳ xuống buông cánh tay phun nọc Rũ bàn tay ngón trót mọc gươm dao! Mũi nhọn ấy xỉa mười phương tim óc Của quê hương… Lòng Mẹ xót như bào! Con rắn ấy với hai đầu đòn sóc Mổ dọc ngang; thân Mẹ vốn gầy hao!Đã đến lúc ngươi cầu xin tội lỗi; Đây Việt Nam Quốc Tự nhịp gieo vàng. Đã đến lúc ngươi quay đầu xám hối; Chuông Giáo đường kia chẳng cũng khua vang?Dân lành giữa phút tâm tang Lòng đau nhóm lửa sẵn sàng. Hai mươi tám ngôi sao lệ rỏ Ngấn bạch lạp trên quan tài hiện rõ; Tình yêu tổ quốc chân thành Một với tình thương mười loại chúng sanh. Mưa trút xuống cày sâu trang sử ngỏ Giòng nước mắt dài theo đường Tí Ngọ; Tình yêu nhân loại bao la Một với tình thương muôn dặm sơn hà.Lẽ Từ Bi truyền cho ngươi, Bạo Lực! Xoá đi mau hình quỷ bóng ma, Từ trong ẩn ức, Trong mặc cảm, và ngay trong tiềm thức; Để về đây huynh đệ một nhà; Với bản lai diện mục, Với hồn thiêng núi sông này chung đúc Bốn ngàn năm vào một sát na!Cảm thông, Đất Mẹ chưa già Cành Nam may có nở hoa thanh bình.

Hoa Trang thành tượng

Các ngả trôi về muôn tiếng vang, Trái tim rung cho đất rung theo nhịp chèo liên giang, Chuông bay lên cùng nắng gieo vàng. Giữa tiết Trùng dương ngày Tái tạo Nghe mạch nước hồi tâm bát ngát những thanh âm kỳ ảo; Đây! Nơi đây thành tượng Mùa thiêng Hoa Trang!Ôi, mùa hoa Quách Thị Trang, Hoa Học Trò bất diệt! Còn nở mãi trên muôn giòng nhiệt huyết Của tuổi tròn trăng, của tuổi bình minh, Của thế hệ Đôi mươi lớp lớp có nghiêng mình Trước màu vàng tươi ánh Đạo. màu trắng ngát hương trinh! Nhớ một sớm, đau niềm đau dân tộc, Trang bước lên, miệng hoa cười gió lốc. Cánh hoa gầy loang đỏ máu thư sinh.Chỉ một cánh hoa gieo khối bất bình Mà phút chốc, cả hồn thiêng Cách mạng Đã giấy mực cựa men say bướm bay giòng phấn bảng; Nét chữ bừng soi sáng Hào khí muôn đời một hiển linh! Trang, từng trang sách vở, Thấp thoáng in hình; Nam, Ngãi, Sài đô, Thuận Hoá, Bàn tay giao cảm đinh ninh Nguyền kéo theo gươm, súng, bút đăng trình.Lửa Từ Bi thắp lên rồi Chính Nghĩa Hoa Học Trò xuống tiếp lệnh Hy Sinh, Bạo Lực ấy phải cùng thiên tuyệt địa Chờ tan thây trong tiếng nổ lôi đình.Ngày Một tháng Mười Một Trước đây vừa một năm Giữa khoảng hai hồi chiêu mộ, Hồn Trang đã nhập vào tiếng nổ Cùng núi sông trời bể thét hờn căm. Dưới mưa đạm một hình rơm xụp đổ, Và trong tiềm thức chúng tôi Thần tượng Hoa Trang thể hiện ngay rồi.Nay, sóng lớp phế hưng tiếng gào cấp thiết, Dương mắt ngó Đông Tây ngàn sợi dây oan nghiệt, Ánh thép xưa hoài cảm phút mài trăng; Viễn ảnh còn nguyên sóng dậy đất bằng. Nơi tám ngả công trường hịch vải chưa nhoà khí tiết Chúng tôi đặt: với tinh thần bất diệt Của cuộc đấu tranh mười tám tháng trước đây, Tượng Quách Thị Trang người nữ sinh hào kiệt, Để thiên thu trường cửu đối cao dày.Trời nghiêng đất lệch có ngày Đá kia tượng vững chí này trơ trơ.

Năm ngón tay Phật

Bàn tay Đức Phật giơ lên Hồi chuông nhịp mõ vang rền Gọi tỉnh muôn loài trong cõi bụi.Năm vị Thiền Sư lòng cao như núi Và rỗng không như mõ ấy chuông này. Gỗ rung Vàng réo Lửa Đất Nước tình chan chứa; Ngũ Hành Sơn ngồi nhập định khuya nay Cho đến hôm nao thật có ban ngày…Mười phương hùng lực Chẳng sức nào lay; Nước Việt miền Nam mấy mươi vòng áp bức Rồi như bụi cuốn tro bayNăm vị Thiền Sư vẫn ngồi tuyệt thực, Muôn vạn chúng sinh cùng đau rưng rức, Lệ tuôn rơi nguyền xoá hết đêm dày.Gươm dao mặc bọn người hung dữ, Chỉ Phật trong lòng, Phật ở Tay. Sáng rực con đường lên Quốc Tự, Pháp Luân vừa hiện: mặt trời quay!Tâm sự một giòng lệ Nước mắt chảy thành sông Về Ngôi Chùa Của Nước. Kìa ai giàn thế công Sắt thép ngăn đường trước!Phải người máy hay không Mà vô tình thế được? Ôi, Hòn ngọc Viễn Đông Lăn theo vàng Nữu-ước!Câu “Trợ Trụ vi ngược” Vang vang buồn mênh mông…Bên đường chợt ngẩng trông, Biển ghi: Trần Quốc Toản. Sầu tủi dâng đòi đoạn, Ông là ai thế ông?Có phải trai thời loạn. Ngày xưa phá quân Mông? Những ai cùng quê quán? Những ai cùng tổ tông?Càng gẫm càng ai oán, Cười phá lên gai chông; Rách tan mọi huyết quản Giòng lệ hoá sông hồng…

Chính nghĩa

TRÍ vút lên ngàn vạn trượng cao THIỆN TÂM HỘ PHÁP chẳng hề nao Ánh vàng tuôn khắp soi lòng súng Tay trắng ngồi kia chấp mũi dao. Năm hạng dân đều linh cảm thấy Mười phương Phật đã hiện thân vào. Những ai tráng sĩ con nhà Lạc Trong mũ còn chưa dựng tóc sao?

Thời cảm

Khởi ưng dạ dạ thính đề quyên Bút kiếm giai minh vũ hịch truyền. Thi khả phục long kỳ phục hổ Chung năng hồi nhật khánh hồi xuyên. Nhất chiêu giác ngạn thiên hoa tán Vạn lý xuân phong bát nhã thuyền. Nam quốc sơn hà Nam Quốc tự Như hà ẩm thuỷ bất tư nguyên!

Mùa xuân tháng tư

Thiều quang ngoài cả chín mươi Riêng trong ánh đạo vàng tươi thấm nhuần Tháng Tư mới vẹn mười xuân Hoa Đàm nở, nguyệt Pháp Luân mới tròn Gương đầy lên giữa khuôn mòn Diệt là Sinh, Mất đang Còn phải chăng? Đêm rằm mở hội hoa đăng Con sông nào chả sông Hằng giờ đây! Phương nào cũng một phương Tây, Đỉnh non kia giải núi này: Tuyết Sơn! Bóng mây hơi nước sạch trơn Vết đau hình thể ý hờn âm thanh. Cát nằm Bến Hải nghe quanh: Bèo trôi hoài giấc tung hoành tỉnh chưa? Hai chiều ngược nắng xuôi mưa Bánh xe Diệu Pháp cùng đưa trở về.

Điềm Thái Hoà

Bước chân Di Lặc thoáng gần xa Điềm báo rồi chăng buổi Thái Hoà Nước chẩy đưa dần mây tới bến Trăng lên đẩy ngược bóng về hoa. Nhịp nhàng với trước sau không khác Chót vót trong trời đất có Ta! Hội mở tháng Tư lòng hiện Phật Sáng trưng muôn hạt cát Ngân Hà

Núi kia sông nọ chùa này

Hạt cát tiền thân ngủ bến Hằng Nơi này chợt tỉnh: Hội hoa đăng! Nghe sông núi ngát từ muôn thuở; Đất Việt trời Nam, Hương quốc chăng?Sông núi thơm lừng lẫy Chùa lên ngôi thành tên; Cùng Hương giang với Hương Sơn ấy, Vạn thuở Chùa Hương dấu Phật truyền. Ba nén thắp lên Cùng nghi ngút cháy, Mười tám trăm năm từ mở kỷ nguyên. Bao nhiêu đời tổ tiên Hương lòng đã thắp, Nào ta dâng lên Cho khói chở niềm tin rộng khắp, Lời nguyện xa bay. Nguyện cho trời đất cao dày Núi kia sông nọ Chùa này sáng danh.Kìa ngọn lửa hôm nào đỏ rực Kết nên mây lành; Từ da thịt, từ trái tim Thầy QUẢNG ĐỨC, Lửa dâng cao mùa Pháp nạn nghĩa hy sinh Thì nước Việt đã là Hương quốc, Núi sông nào chẳng ngát anh linh! Phải đâu một Hương sơn miền Bắc, Một Hương Giang của xứ Thần kinh! Mà đâu cũng Chùa Hương dấu thơm vằng vặc; Ôi Việt Nam Quốc Tự mười phương chứng minh! Nén hương lòng nguyện chúng sinh Tìm cho thấy Phật nơi mình, từ Tâm?Chuông Chùa dội mãi dư âm Đỉnh gươm dao bến mê lầm sạch không!Hoa Vô Ưu nở Tươi cành Lạc Hồng; Bánh xe nhật nguyệt thanh bình mở, Phơi phới đường lên tự hướng Đông.

Dư âm hạt cát

Theo ngọn triều lên ngủ bến vàng, Kiếp hành vân gửi bóng lang thang. Qua đêm, nước xuống, mây về biển, Cát rã rời muôn vết dọc ngang.Chừ… khắp bình sa, mỗi khối hờn Nứt ra thành tiếng gọi cô đơn. Tay ai vĩ tuyến vừa căng thẳng Cho bản đàn thu bão nổi cơn?

Lời nguyện đêm thu

Nước non vô tội bỗng lăng trì Xương máu càng đau hận biệt ly. Nước bặt tăm rồi non chết ngất Xương nằm trơ lại máu ra đi. Nước tuôn trào máu còn mang nghiệp Non rũ dần xương hẳn lỡ thì! Hàn gắn nước non xương máu ấy, Trăng tròn, xin dội ánh từ bi!

Bút nở hoa đàm

Ai sẽ là người trong tương lai Một sớm một chiều Vươn tay hái cành hoa Thương Yêu Làm bút viết, Nối vào trang sử loài người Vẫn chép Từ lâu Bằng gươm, bằng súng đạn Của Mông Cổ Thành-cát-tư Đại Hãn Của Nã-phá-luân Hoàng đế Âu châu?Bút sa nở trắng bồ câu Xé đường bay, vỏ đêm sầu rách bung.Dư ảnh chiến thuyền chưa nhạt Hồi âm ngựa trận còn rung, Từng đã lên màu sát phạt Hồn Chữ linh lung, Từng đã say men gió cát Hơi văn chập chùng; Muôn nét Sử, một nghe triều nhựa mát Thấm quanh mình, cất cánh sẽ bay tung.Ôi, mùa đăng trình, Có hoa làm bút Nhựa tuôn giòng mực trắng tinh và trang giấy mang mang nằm đợi phút Quay về bản thể nguyên trinh! Đâu đó Trường Sa Quảng đảo Vật vờ tro bụi chúng sinh? Ngang dọc xương phơi… chừ… Nam Việt Bắc Bình! Cao thấp máu trôi… kìa… Đông Tây Bá Linh! Ác mộng ấy phải không còn dấu vết!Ai sẽ là người, cánh tay hào kiệt, Trong tương lai, một sớm một chiều, Đủ sức hái cành hoa làm bút viết Những vần Thương Yêu?
Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương đã viết trong tập Bút nở hoa đàm. Qua tập thơ này ta có thể thấy ông đã dùng thơ ca để đấu tranh. Đó cũng chính là phong cách của một người có tinh thần vô úy và anh hào. Để rồi ông được nhận xét là thi sĩ xứng đáng nhất trong lịch sử đấu tranh bất bạo động cho hòa bình tại Việt Nam.