Trần Tế Xương là một nhà thơ có cuộc đời ngắn với chỉ với 37 năm. Trong những năm tháng của cuộc đời ông cũng chính là gắn với những biến cố của lịch sử của đất nước. Chính vì vậy trong những bài thơ của ông thường đề cập đến những biến cố, những thói sầu đời… Tuy nhiên những bài thơ được viết trong giai đoạn này rất được nhiều người yêu thơ thích thú. Cùng đón đọc những bài thơ hay nhất của nhà thơ Trần Tế Xương dưới đây bạn nhé!

Hát Cô Đầu

Nhân sinh quý thích chí Chẳng gì hơn hú hí với cô đầu Khi vui chơi dăm ba ả ngồi hầu Chén rượu cúc đánh chầu đôi ba tiếng Tửu hậu khán hoa nhàn bất yếm Hoa tiền chước tửu hứng vô nhai Hỡi ai ơi chơi lấy kẻo hoài Chơi cũng thế mà không chơi cũng thế Của trời đất xiết chi mà kể Nợ công danh thôi thế là xong Chơi cho thủng trống long bồng

Hót Của Trời

Nó rủ nhau đi hót của trời Đang khi trời ngủ, của trời rơi. Hót mau kẻo nữa kinh trời dậy Trời dậy thì bay chết bỏ đời!

Hỏi Ông Trời

Ta lên ta hỏi ông trời: Trời sinh ta ở trên đời biết chi? Biết chăng cũng chẳng biết gì Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu Biết thuốc lá, biết chè Tàu Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi

Hỏi Ông Trăng

Ta lên ta hỏi ông trăng Hoạ là ông có biết chăng sự đời Ông cao ông ở trên trời Mà ông soi khắp nước người nước ta Năm châu cũng một ông mà Kể riêng thì lại mỗi nhà mỗi ông

Hỏi Đùa Mình

Ông có đi thi ký lục không? Nghe ông quốc ngữ học chưa thông Ví dù nhà nước cho ông đỗ Mỗi tháng lương ông được mấy đồng?

Hỏi Mình

Trải mấy mươi năm vẫn thế ru? Rằng khôn, rằng dại, lại rằng ngu? Những là thương cả cho đời bạc Nào có căm đâu đến kẻ thù No ấm chưa qua vành mẹ đĩ Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu Phen này có dễ trời xoay lại Thằng bé con con đã chán cù

Hỏng Thi Khoa Quí Mão (1903)

Trách mình phận hẩm lại duyên ôi! Đỗ suốt hai trường hỏng một tôi! “Tế” đổi làm “Cao” mà chó thế! “Kiện” trông ra “Tiệp” hỡi trời ôi! Mong gì nhà nước còn thi nữa, Biết rõ anh em chẳng chắc rồi. Mũ áo biển cờ, làng có đất, Ô hay! Hương vận mãi chưa hồi!

Hễ Mai Tớ Hỏng

Hễ mai tớ hỏng, tớ đi ngay! Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày! Học đã sôi cơm nhưng chửa chín Thi không ăn ớt thế mà cay! Sách đèn phó mặc đèn con trẻ Thưng đấu nhờ trông một mẹ mày. “Cống hỉ”, “mét xì” thông mọi tiếng, Chẳng sang Tầu cũng tếch sang Tây…

Hoá Ra Dưa

Ước gì ta hoá ra dưa Để cho người tắm nước mưa chậu đồng! Ước gì ta hoá ra hồng Để cho người bế người bồng trên tay!

Kể Lai Lịch

Cũng võng cũng dù Cũng hèo cũng quất Ăn, cậu cũng “thời” Ngủ, bà cũng “giấc” Tháng rét quạt lông Mùa hè bít tất. Tráp tròn sơn đỏ, bà quyết theo trai; Điếu ống xe dài, cậu đành lễ phật. Tai gài ngọn bút, anh kia dòng tịch sĩ xuất thân; Lưng giắt thẻ bài, chú nọ loại lính tuần được đất. Hai cậu con đóng vai ấm tử, lối bếp bồi cậu cũng như nhau Đôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thoã bà nào cũng nhất. Nhất tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này mai chùa khác, mở lòng từ tô tượng đúc chuông ; Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, che miệng thế đong dầu rót mật. Thế mà Bà vẫn nghênh ngang, Cậu càng phong vận. Ý hẳn cậu còn tuổi trẻ, tính hãy thơ ngây; Quái thay bà đã về già, cũng còn lẩn thẩn…

Khóc Em Gái

Mệnh sao bạc thế hỡi em ơi! Hai bốn hai lăm cũng một đời Bảng hổ vừa treo, cầu Thước bắc Cành thoa đã rụng, phím đàn rơi Cây tương tư héo, chồng rầu rĩ Thuyền độ sinh đưa, Phật rước mời Những muốn dựng bia toan kỷ niệm Lòng anh thương xót, xiết bao nguôi!

Khóc Vợ Bạn

Quả núi Châu Phong mới bắc cầu Thương anh về trước, chị về sau! Tên đề bảng phấn ai không tiếc Tiếng khóc non xanh vượn cũng sầu Có mẹ tưởng là vui gượng lại Không chồng hồ dễ sống chi lâu! Bắc thang lên hỏi ông cầm sổ Thăm thẳm mù xanh ngắt một màu

Không Chiều Đãi

Rước phải cô đào mới tẻo teo Rác tai đà lắm sự ì èo Cầm kỳ thi tửu vui ra phá Điền sản tư cơ mấy cũng nghèo Bạn ác không vay mà thúc lãi Thói thành dầu lịch cũng thành keo Thôi thôi xin kiếu cô từ đấy Chiều đãi thì tôi cũng… váo đèo

Không Học Vần Tây

Mợ bảo vần Tây chẳng khó gì! Cho tiền đi học để chờ thì. Thôi thôi lạy mợ “xanh căng” lạy. Mả tổ tôi không táng bút chì!

Không Vay Mà Phải Trả

Nợ mướn van thay cũng chẳng xong Không vay mà trả một trăm đồng Kìa người ăn ốc đà khôn chửa Để tớ đền gà có hại không? Nào cứ bao nhiêu, liền khúc ruột Thôi đừng đeo đuổi, phất chân lông Kìa câu đói ngủ gương còn đó Xin chớ như ai chết cả ông

Khen Người Hàng Sắt

Qua đình Hàng Sắt đến nhà ông, Nhà tẻo tèo teo lại gác chồng. Vành sắt chất lên như thể núi, Lưỡi cày xếp đó để làm chông. Khách năm ba kẻ bi bô nói, Gái một vài cô ngấp nghé trông. Có phải nhà thuê ông tậu quách, Ở đây gần chợ lại gần sông.

Khoa Canh Tý

Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa; Tuân khoe văn hoạt, Nghị văn già Năm nay đỗ rặt phường hay chữ, Kìa bác Lê Tuyên cũng thứ ba!

Làm Lẽ Thứ Tư

Những trách cô mình tính lẳng lơ Làm hai chẳng muốn, muốn làm tư! Say đường buôn bán nên không lãi Tính chuyện trăng hoa phải mắc lừa Ấy bởi lầm về anh bợm gốc Thôi đừng trách lẫn tại ông tơ Lời này nhắn bảo người son phấn Nghĩ mối sầu kia đã biết chưa?

Lên Đồng

Khen ai khéo vẽ sự lên đồng Một lúc lên ngay sáu bảy ông Sát quỉ, ông dùng thanh kiếm …gỗ, Ra oai, bà giắt cái …khăn hồng. Cô giương tay ấn, tan tành núi, Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông. Đồng giỏi sao đồng không giúp nước ? Hay là đồng sợ súng thần công ?

Lấy Lẽ

Cha kiếp sinh ra phận má hồng! Khéo thay một nỗi lấy chung chồng Mười đêm chị giữ mười đêm cả Suốt tháng em nằm suốt tháng không Hầu hạ đã cam phần cát luỹ Nhặt khoan còn ỏm tiếng Hà Đông Ai về nhắn bảo đàn em nhé Có ế thì tu, chớ chớ chung!

Lụt Năm Bính Ngọ (1906)

Thử xem một tháng mấy lần mưa Ruộng hoá ra sông cỏ vật vờ Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa Trâu bò buộc cẳng coi buồn nhỉ Tôm tép văng mình đã sướng chưa! Nghe nói miền Nam trời đại hạn Sao không san sẻ nước cho vừa?

Lễ Xướng Danh Khoa Đinh Dậu (1897)

Nhà nước ba năm mở một khoa Trường Nam thi lẫn với trường Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến Váy lê quét đất, mụ đầm ra. Nhân tài đất Bắc nào ai đó ? Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!

Mùa Nực Mặc Áo Bông

Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không! Một tuồng rách rưới con như bố Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng Đất biết bao giờ sang vận đỏ? Trời làm cho bõ lúc chơi ngông! Gần chùa gần cảnh ta tu quách Cửa Phật quanh năm sẵn áo sồng

Mất Hai Hào

Gặp ván bài đen đã chẳng ù Nào ngờ lại gặp chú phi lu! Bỡn thì xin trả ngay cho tớ Chẳng trả thì xơi cái tử cù.

Mẹ Cái Lầm (Phú Đắc)

“Vào rừng không biết lối ra Thấy cây núc nác ngỡ là vàng tâm” (ca dao) Hỡi đứa ôm cây, tớ bảo thầm: Ruột vàng nhưng lưỡi nó thì thâm! Tìm hươu chẳng thấy, cha thằng hoáng, Xấu hổ khôn che, mẹ cái lầm!

Mẹ Vợ Với Chàng Rể

Ai về nhắn bảo việc này cho: Nhắn bảo ai rằng việc nhỡ to! Chép miệng, bà nuôi to cái dại, Phờ râu, ông rể ẵm con so! Cắm sào sâu quá nên thêm khổ, Néo chặt dây vào hoá phải lo. Vẫn biết sống lâu nhiều sự lạ Tử qui thắt lại một “con cò”.

Mừng Ông Cử Lấy Vợ Kế

Một sớm ơn vua chiếm bảng vàng Lam Kiều lối cũ lại lần sang. Câu văn Hán, Tống hay ghê gớm Quyển truyện Phan Trần thuộc cháo chan. Gỗ tốt nỡ đem trồng cột giậu, Chim khôn sao khéo đậu nhà quan! Làng nho ai lại hơn ông nhỉ ? Có lẽ ông nay sướng nhất làng! Truyện phong tình Câu đối mừng ông phó Huyến Lão chửa già đâu, nghiêng ngửa vì ai nên tóc bạc, Xuân sao trẻ mãi, xoay vần như thế vẫn đào non ?

Mừng Ông Lang

Làm thuốc như ông cũng có tài Thực là chăm chỉ lại lanh trai. Phen này mồ mả nhà ta phát: Thi cử, hai con đỗ cả hai!

Mừng Chú Làm Nhà

Ông bà ngày trước có gì đâu Chú thím ngày nay đã lại giàu Mới biết trời cho không mấy lúc Lọ là nuôi cá với trồng cauNhà gỗ năm gian lợp lá gồi Trông dòng sông Vị tựa non Côi Đầu nhà khanh khách vào làm tổ Ngồi thấy chim non nó há mồiKể chi giàu của, lại giàu con Gái gái trai trai hai cỗ tròn Bà mới bảy mươi còn thọ nữa Phúc nhà có dễ chất tày nonChú lại nuôi thầy dạy các em Một bồ kinh sử, mấy xâu nem Đất nào là đất không khoa giáp Quyết mở đường cho thiên hạ xem

Mừng Nghị Viên

Nghị viên há phải việc con con, Nước có quyền dân, nước mới còn. Được buổi mở mồm, nên nhức óc, Dù ai bóp méo, cũng vo tròn. Thay hai vạn rưởi người ăn nói, Mở bốn nghìn năm mặt nước non. Kính chúc duy tân hai chữ mới, Xin đừng xôi thịt lũ quan hòn.

Mồng Hai Tết Viếng Cô Ký

Cô Ký sao mà đã chết ngay? Ô hay, trời chẳng nể ông Tây! Gái tơ đi lấy làm hai họ Năm mới vừa sang được một ngày. Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ, Ông chồng thương đến cái xe tay! Gớm gan cho những cô con gái Còn rủ rê nhau lấy các thầy!

Một Nén Tâm Hương

Im ỉm thâu đêm lại thẳng ngày Bệnh đâu có bệnh lạ lùng thay! Thuốc thang nghĩ lại chua mà đắng Đường mật xem ra ngọt hoá cay Lắm bệnh bạn bè lui lại ít Nặng lòng họ mạc hỏi han đầy Chỉ bền một nén tâm hương nguyện Thuốc thánh bùa tiên ắt chẳng chầy

Mưa Tháng Bảy

Sang tuần tháng bảy tiết mưa ngâu Nắng mãi thì mưa cũng phải lâu Vạc nọ cầm canh thay trống mõ Rồng kia phun nước tưới hoa màu Ì ào tiếng học nghe không rõ Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu Ông lão nhà quê tang tảng dậy Bảo con mang đó chớ mang gầu

Năm Mới

Chỉ bảo nhau rằng: mới với me, Bảo ai rằng “cũ”, chẳng ai nghe. Khăn là bác nọ to tày rế, Váy lĩnh cô kia quét sạch hè. Công đức tu hành sư có lọng, Xu hào rủng rỉnh, mán ngồi xe. Chẳng phong lưu cũng ba ngày tết, Kiết cú như ai cũng rượu chè!

Ngày Xuân Của Làng Thơ

Ngày ba tháng tám thấy đâu mà? Sao đến đầu xuân lắm thế a? Ý hẳn thịt xôi lên chặt dạ Cho nên con tự mới lòi ra?
Trên đây là những bài thơ hay của Trần Tế Xương mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu thên về phong cách sáng tác của nhà thơ này. Từ đó bạn sẽ hiểu thêm về cuộc đời cũng như những giai đoạn của lịch sử và đời sống nhân dân lúc bấy giờ. Đừng quên đón đọc các bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật các bài thơ hay nhất của chúng tôi bạn nhé! 
Bài Nhiều Lượt Xem  Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập thơ dịch tác giả khác hay đặc sắc