Bên cạnh các sáng tác thơ ca Trần Tế Xương cũng đã dành nhiều thời gian để tham gia dịch thuật. Điều này cũng thể hiện được tài năng của nhà thơ. Đó là khả năng sử dụng ngôn từ, sự linh hoạt và chất thơ trong lòng của nhà thơ. Đa phần các bài thơ dịch đều là các tác phẩm nổi tiếng. Và cũng được đánh giá rất cao. Hãy cùng tìm hiểu các bài thơ dịch của nhà thơ này bạn nhé!

Dã vọng (Thanh thu vọng bất cực) – Đỗ Phủ

Màu thu trong lẻo ngắm khôn cùng Uốn cuộn tầng âm cách mắt trông Bát ngát trời xanh lồng nước thẳm Mịt mù mây bạc lẩn thành không Cành lơi trước gió hơi sương lợp Núi ngất bên trời bóng nắng buông Con hạc đi đâu về chậm tá Chim hôm chi để ngọn cành rung

Đảo y – Đỗ Phủ

Gần thu miếng đá gượng lau rồi Cũng biết chàng nay việc chửa rồi Áo kép chờ nay ba tháng lạnh Chăn đơn chực đó mấy năm trời Nghề riêng dám trễ tay canh cửi Của chút làm ghi dạ một hai Chăm chỉ buồng thêu đà hết sức Tiếng chày văng vẳng thấy chăng ai

Đăng Nhạc Dương lâu – Đỗ Phủ

Mấy cảnh Tiêu Tương vẫn tiếng đồn Lầu đây hồ đấy trải bao còn Chia ra Ngô Sở chiều ngang dọc Chốt lại càn khôn thỏa nước non Một chữ thân bằng tin nhạn vắng Nghìn trùng quan tái chiếc thuyền con Xa xa cõi bắc lầm phong hỏa Thăm thẳm Trường An mắt đã mòn

Động phòng – Đỗ Phủ

Sểnh sảng cung trang tiếng lạnh lùng, Gió hiu đưa xới cửa đền rồng. Mảnh trăng kim cổ khi tròn khuyết, Đầy đất lâu đài lúc có không. Giọt lậu canh khuya nào quận quốc, Chiếc thuyền buộc chặt với non sông. Xa xôi muôn dặm Hoàng Sơn tít, Mấy chốn gò phơi vẻ móc hồng.

Sơ nguyệt – Đỗ Phủ

Nửa vành vừa hé mái cung lên Một bánh xe trông chửa vẹn tuyền Thấp thoáng đầu cành trên bể ló Lô nhô ban tối áng mây ken Chắn ngang luống để sông Ngân trắng Hiu hắt vì ai mặt ải đen Trăm mối bên lòng càng áy náy Dãy thềm chòm cúc giọt sương hoen

Thập thất dạ đối nguyệt – Đỗ Phủ

Vành vạnh trăng thu chút chẳng sai Xóm sông lụ khụ một mình ai Cuốn rèm trông thấy như chào lão Chống gậy ra chơi lại đón người Soi suốt rồng nằm dòng nước chảy Sáng choang chim ngủ bóng cành phơi Nhà tranh ngồi tựa bên chồi quýt Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời

Xuân dạ hỉ vũ – Đỗ Phủ

Khen thay con tạo khéo chia mùa Hoa sớm mưa xuân những hẹn hò Đưa nhẹ một cơn bừng giấc thắm Rơi ra từng sợi thấm cành khô Đồng không lối tắt mây nghi ngút Sông vắng thuyền ai lửa thập thò Phơi phới thành xuân ban sáng tạo Chồi sương nặng trĩu mặt hoa đưa.

Hạ nhật quá Trịnh thất sơn trai – Đỗ Thẩm Ngôn

Cũng có rượu bầu tốt Lại tìm cửa động chơi Dây giăng đường đá lấp Lá nổi mặt hồ tươi Mưa dạt trêu trời nóng Mây đưa tiếng sấm rơi Lạc Dương hồi trống sớm Xe ngựa sắp bầy ngồi

Hoạ Khang ngũ Đình Chi “Vọng nguyệt hữu hoài” – Đỗ Thẩm Ngôn

Trăng sáng vẻ thu trong, Kìa ai lẩn thẩn trông. Vừa như cung uốn khúc, Phút đã quạt tròn vòng. Suốt sáng sương trong đượm, Thâu đêm bóng trắng không. Đem soi lần áo mỏng, Khiến dạ biết bao cùng!

Hoạ Tấn Lăng Lục thừa “Tảo xuân du vọng” – Đỗ Thẩm Ngôn

Ngựa xe nức tiếng gần, Hoa cỏ mát màu xuân. Ráng trắng bên bờ bể, Đào tơ rủ bến ngần. Chim non nhờn cội liễu, Nắng sáng lộn rau tần. Hoạ vần lòng như giục, Giọt sầu chửa thấm khăn.

Lữ du thương xuân – Lý Xương Phù

Mơ giấc hương quan rượu vẫn còn Giọt đồng thánh thót nhắp nào ngon Nhấp nhô sáng hé chân trời tỏ Lác đác xanh rì vẻ liễu non Cái én đậu cành phơi cánh trắng Bóng hoa rợp đất nhạt màu son Bấy lâu thơ thẩn mai cùng tuyết Rong ruổi non sông vó ngựa chồn

Hoạ Vạn Niên thành Thiếu phủ “Ngụ trực” – Tiền Khởi

Thu này huyện ấy cảnh càng ưa Như giục lòng ta mấy vần thơ Liếc thấy trước đền vầng thỏ giãi Phút nghe nách cửa tiếng chuông đưa Dập dình trên lá huỳnh bay nhặt Thấp thoáng trong mây nhạn liệng thưa Mai mốt chiếu trời ban xuống đó Tưởng như tài ấy há ơ hờ

Xuân nhật đăng Kim Hoa quán – Trần Tử Ngang

Đền tiên thềm ngọc buổi xuân chơi, Lẩn thẩn xa trông mắt tuyệt vời. Núi nọ lô xô mây lộn nước, Lầu kia thấp thoáng khói lưng trời. Nghìn năm chim hạc chòm cây cổ, Trăm thước cầu vồng lộng vẻ tươi. Nào biết ông tiên đâu đó nhỉ, Đường mây gặp gỡ để mời ai!

Xuân sơn nguyệt dạ – Vu Lương Sử

Bút thần khôn vẽ nét xuân san Đốt đuốc trên sông mấy chén giàn Trắng lộn lên mây lồng bóng nước Thơm lừng trước gió lẫn mùi lan Mảng vui bao quản đường kia nọ Mến cảnh còn say tiệc chửa tràn Thấp thoáng lâu đài lồng vẻ biếc Chày kình thặm thọt lúc canh tàn

Thánh Tuyền yến – Vương Bột

Phất phơ tràng áo bước lên non Ngoảnh lại bên đình lạch suối con Bầu sánh cúc pha ba chén cạn Vần lơi tùng thét mấy cung dồn Lơ thơ bóng rủ ngoài cành lọn Ngào ngạt hoa bay trước gió tuôn Rừng vắng tà tà say ngắm cảnh Lô xô len đá khói đùn đùn

Dã vọng – Vương Tích

Bóng lộn ngàn cao buổi tối mòng Một mình chưa dễ đứng ngồi xong Cây lồng sắc chiếu màu thu tía Non ánh tà dương lộng vẻ hồng Trẻ mục giục trâu lùa cái nghé Người săn cưỡi ngựa xách con hồng Cùng trông lại biết ai hay tá? Tưởng hái rau vi những ngại ngùng
Trên đây là các bài thơ dịch tác giả khác của nhà thơ Trần Tế Xương. Với các bài thơ này bạn cũng sẽ hiểu thêm về khả năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ. Cũng như cách dùng từ và thiên hướng và chất thơ trong lòng tác giả. Đừng quên đón đọc các bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật các bài thơ hay nhất bạn nhé!