Chùm thơ dịch của luôn là chủ đề bàn tán của nhiều người trên văn đàn bởi độ độc đáo cùng tinh tế của ông. Nổi bật nhất là chùm thơ dịch của Heinrich Heine, đây được xem là bước thành công nhất của Tế Hanh ở thời điểm bấy giờ. Heinrich Heine là một trong những nhà thơ nổi tiếng ở Đức, được biết đến với những lời thơ, phần lớn trong số đó (đặc biệt là những tác phẩm thời kỳ đầu của ông) đã được chuyển thành lời các bài hát. Heinrich Heine còn là một nhà thơ duy nhất của mọi thời đại và mọi nước có thơ được phổ nhạc nhiều nhất trên hành tinh này. Hãy đón xem những thi phẩm dịch của Tế Hanh ngay bây giờ nhé!

“Ai ngày xưa phát minh chiếc đồng hồ”

Sag mir, wer einst die Uhren erfund, Die Zeitabteilung, Minute und Stund’? Das war ein frierend trauriger Mann. Er saß in der Winternacht und sann, Und zählte der Mäuschen heimliches Quicken Und des Holzwurms ebenmäßiges Picken. Sag mir, wer einst das Küssen erfund? Das war ein glühend glücklicher Mund; Er küßte und dachte nichts dabei. Es war im schönen Monat Mai, Die Blumen sind aus der Erde gesprungen, Die Sonne lachte, die Vögel sungen.Dịch Ai ngày xưa phát minh chiếc đồng hồ Chia thời gian, chia giờ, chia phút? Có lẽ đó một người buồn, lạnh nhạt Trong đêm đông suy nghĩ một mình, Đếm từng tiếng kêu của lũ chuột rập rình Từng tiếng côn trùng cắn vào khúc gỗ. Ai ngày xưa phát minh chiếc hôn? Có lẽ đó một con người sung sướng, Đuợc yêu, được hôn không cần liên tưởng. Trong tháng Năm đẹp đẽ, trong tháng Năm, Hoa nở lên từ mặt đất âm thầm, Trên cao mặt trời cười và bầy chim ca hát.

“Cảnh thiên đường không hấp dẫn tôi”

Mich locken nicht die Himmelsauen Im Paradies, im selgen Land; Dort find ich keine schönre Frauen Als ich bereits auf Erden fand. Kein Engel mit den feinsten Schwingen Könnt mir ersetzen dort mein Weib; Auf Wolken sitzend Psalmen singen, Wär auch nicht just mein Zeitvertreib. O Herr! Ich glaub, es wör das beste, Du ließest mich in dieser Welt; Heil` nur zuvor mein Leibgereste, Und sorge auch für etwas Geld. Ich weiß, es ist voll Sünd und Laster Die Welt; jedoch ich bin einmal Gewöhnt, auf diesem Erdpechpfaster Zu schlendern durch das Jammertal. Genieren wird das Weltgetreibe Mich nie, denn selten geh ich aus; In Schlafrock und Pantoffeln bleibe Ich gern bei meiner Frau zu Haus. Laß mich bei ihr! Hör ich sie schwätzen, Trinkt meine Seele die Musik Der holden Stimme mit Ergötzen. So treu und ehrlich ist ihr Blick! Gesundheit nur und Geldzulage Verlang ich, Herr! O laß mich froh Hinleben noch viel schöne Tage Bei meiner Frau im statu quo!Dịch Cảnh thiên đường không hấp dẫn tôi Giữa những người gọi là hạnh phúc Tôi không thấy những đàn bà đẹp, Như những người tôi thấy trên đời. Cả cô tiên đôi cánh đẹp nhất Không thể nào thay thế vợ tôi; Ngồi trên mây và đọc kinh thánh, Tôi chẳng hề mơ ước bao giờ. Chúa hỡi, tôi cho tốt nhất Hãy cho tôi trên cõi đời này; Chữa cho tôi lành bao bệnh tật, Và cho tôi một ít tiền tiêu. Tôi biết cõi đời còn quá xấu, Nhưng mà tôi đã sống quen rồi; Thân tôi đã nhiều lần chìm nổi Trên những con đường nước mắt rơi. Thiên hạ ồn ào, tôi chẳng ngại Vì tôi đau ốm ít đi ra; Áo quần cũ kỹ, tôi chỉ thích, Đóng cửa ngồi bên với vợ nhà. Cứ để tôi ngồi yên bên vợ, Tiếng nàng êm dịu tựa lời ca; Tôi nghe như thể lời hạnh phúc. Đôi mắt nàng sao quá thật thà! Chúa ơi! Ít tiền và sức khoẻ Đó là những cái cần cho tôi! Hãy để tôi sống yên bên vợ Tôi chỉ xin ngài có thế thôi!

“Đêm nay tôi mơ thấy”

Im nächt’gen Traum hab ich mich selbst geschaut, In schwarzem Galafrack und seidner Weste, Manschetten an der Hand, als ging’s zum Feste, Und vor mir stand mein Liebchen, süß und traut. Ich beugte mich und sagte: »Sind Sie Braut? Ei! ei! so gratulier ich, meine Beste!« Doch fast die Kehle mir zusammenpreßte Der langgezogne, vornehm kalte Laut. Und bittre Tränen plötzlich sich ergossen Aus Liebchens Augen, und in Tränenwogen Ist mir das holde Bildnis fast zerflossen. O süße Augen, fromme Liebessterne, Obschon ihr mir im Wachen oft gelogen, Und auch im Traum, glaub ich euch dennoch gerne!Dịch Đêm nay tôi mơ thấy Mình ăn mặc rất sang Như trong một tiệc cưới Trước mặt tôi là nàng Tôi nói: này em ơi Ta sắp thành chồng vợ Tôi bỗng thấy lời tôi Như nghẹn ngào trong cổ Nàng bỗng khóc ào lên Ôi hai con mắt đẹp! Ban ngày, tôi bị lừa Đêm mơ tôi vẫn thích

“Họ dày vò thân tôi”

Sie haben mich gequälet, Geärgert blau und blaß, Die einen mit ihrer Liebe, Die andern mit ihrem Haß. Sie haben das Brot mir vergiftet, Sie gossen mir Gift ins Glas, Die einen mit ihrer Liebe, Die andern mit ihrem Haß. Doch sie, die mich am meisten Gequält, geärgert, betrübt, Die hat mich nie gehasset, Und hat mich nie geliebt.Dịch Họ dày vò thân tôi, Họ làm tôi phát cáu, Người với lòng yêu thương Người với lòng căm ghét. Họ đầu độc bữa ăn, Họ đầu độc chén nước, Người với lòng yêu thương Người với lòng căm ghét. Nhưng cái người dày vò Và đầu độc tôi nhất, Chẳng bao giờ yêu tôi, Cững chẳng bao giờ ghét.

“Nàng chạy như con hươu”

Sie floh vor mir wie ‘n Reh so scheu, Und wie ein Reh geschwinde! Sie kletterte von Klipp zu Klipp, Ihr Haar, das flog im Winde. Wo sich zum Meer der Felsen senkt. Da hab ich sie erreichet, Da hab ich sanft mit sanftem Wort Ihr sprödes Herz erweichet. Hier saßen wir so himmelhoch, Und auch so himmelselig; Tief unter uns, ins dunkle Meer, Die Sonne sank allmählich. Tief unter uns, ins dunkle Meer, Versank die schöne Sonne; Die Wogen rauschten drüber hin, Mit ungestümer Wonne. O weine nicht, die Sonne liegt Nicht tot in jenen Fluten; Sie hat sich in mein Herz versteckt Mit allen ihren Gluten.Dịch Nàng chạy như con hươu, Nhanh nhẹ và man rợ, Nơi này đến nơi kia, Mái tóc bay trong gió. Đến cái vực trên biển, Tôi duổi kịp nàng, Và tôi nói dịu dàng Khiến tim nàng cảm động. Chúng tôi ngồi trên cao, Sung sướng như thiên thần, Biển rì rầm dưới chân, Mặt trời chiếu dần xuống. Trong biển tối rì rầm, Mặt trời chiếu như biển, Và vang vang tiếng biển Như thét nỗi vui mừng. Nàng đứng khóc, mặt trời Không mất đau giữa sóng, Trong tim tôi ấm nóng Mặt trời nấp, nàng ơi!

“Ngày, giờ, và vĩnh viễn”

Stunden, Tage, Ewigkeiten Sind es, die wie Schnecken gleiten; Diese grauen Riesenschnecken Ihre Hörner weit ausrecken. Manchmal in der öden Leere, Manchmal in dem Nebelmeere Strahlt ein Licht, das süß und golden, Wie die Augen meiner Holden. Doch im selben Nu zerstäubet Diese Wonne, und mir bleibet Das Bewußtsein nur, das schwere, Meiner schrecklichen Misere.Dịch Ngày, giờ, và vĩnh viễn Chúng đi như ốc sên Những con sên to tướng Với cặp vòi vểnh lên Trong trống không, sương mù Đôi khi một tia chớp Dịu dàng và lạ lùng Như của em ánh mắt Nhưng nỗi vui bỗng mất Chỉ còn lại trong tôi Một ý thức nặng trĩu Về nỗi khổ trên đời

“Những hoa hồng tái nhạt”

Warum sind denn die Rosen so blaß, O sprich, mein Lieb, warum? Warum sind denn im grünen Gras Die blauen Veilchen so stumm? Warum singt denn mit so kläglichem Laut Die Lerche in der Luft? Warum steigt denn aus dem Balsamkraut Hervor ein Leichenduft? Warum scheint denn die Sonn’ auf die Au So kalt und verdrießlich herab? Warum ist denn die Erde so grau Und öde wie ein Grab? Warum bin ich selbst so krank und so trüb, Mein liebes Liebchen, sprich? O sprich, mein herzallerliebstes Lieb, Warum verließest du mich?Dịch Những hoa hồng tái nhạt Em có hiểu vì đâu ? Những hoa tím im lặng Trên cánh đồng xanh màu Vì sao trên bầu trời Chim sơn ca than khóc ? Vì sao đoá hoa thơm Toả một mùi chết chóc? Vì sao trên cánh đồng? Mặt trời buồn ảm đạm Sao trái đất quạnh hiu Mang một màu tang xám Vì sao anh đau khổ? Em hãy nói dùm anh Em nói đi, em hỡi Vì sao em bỏ anh?

“Thuở ấy, tôi có một tổ quốc rất đẹp”

Ich hatte einst ein schönes Vaterland. Der Eichenbaum Wuchs dort so hoch, die Veilchen nickten sanft. Es war ein Traum. Das küßte mich auf deutsch, und sprach auf deutsch (Man glaubt es kaum, Wie gut es klang) das Wort: »ich liebe dich!« Es war ein Traum.Dịch Tổ quốc tôi xưa đẹp Cây sên mọc rất cao, Hoa tím khẽ nghiêng đầu, Ôi giấc mơ ngày trước! Tổ quốc tôi hôn tôi Và nói bằng tiếng Đức “Tôi yêu anh”-sướng thật! Ôi giấc mơ ngày xưa

“Tôi từng mơ…”

Mir träumte einst von wildem Liebesglühn, Von hübschen Locken, Myrten und Resede, Von süßen Lippen und von bittrer Rede, Von düstrer Lieder düstern Melodien. Verblichen und verweht sind längst die Träume, Verweht ist gar mein liebstes Traumgebild’! Geblieben ist mir nur, was glutenwild Ich einst gegossen hab in weiche Reime. Du bliebst, verwaistes Lied! Verweh jetzt auch, Und such das Traumbild, das mir längst entschwunden, Und grüß es mir, wenn du es aufgefunden – Dem luft’gen Schatten send ich luft’gen Hauch.Dịch Tôi từng mơ những cơn mơ say đắm Mơ tóc mây, mơ lá, mơ hoa Làn môi đẹp, những lời chua chát Điệu đàn buồn và những bài ca Những giấc mơ bây giờ tan biến Cùng ảnh hình đẹp nhất thân yêu Tôi chỉ còn câu thơ tha thiết Ghi lại tình tôi một buổi chiều Lời ca còn lại cũng tan thôi! Hãy đi theo những giấc mơ đã mất Chào giùm tôi, nếu như có gặp Tôi gửi lời theo bóng mây trôi

“Triệu năm…”

Es stehen unbeweglich Die Sterne in der Höh, Viel tausend Jahr, und schauen Sich an mit Liebesweh. Sie sprechen eine Sprache, Die ist so reich, so schön; Doch keiner der Philologen Kann diese Sprache verstehn. Ich aber hab sie gelernet, Und ich vergesse sie nicht; Mir diente als Grammatik Der Herzallerliebsten Gesicht.Dịch Triệu năm hàng triệu năm rồi Những ngôi sao ở trên trời đã yêu. Lời của sao đẹp bao nhiêu Nhưng mấy ai hiểu ít nhiều em ơi? Chỉ anh hiểu được mà thôi, Vì anh học được những lời của em.

“Trong đêm tối đời tôi”

In mein gar zu dunkles Leben Strahlte einst ein süßes Bild; Nun das süße Bild erblichen, Bin ich gänzlich nachtumhüllt. Wenn die Kinder sind im Dunklen, Wird beklommen ihr Gemüt, Und um ihre Angst zu bannen, Singen sie ein lautes Lied. Ich, ein tolles Kind, ich singe Jetzo in der Dunkelkeit; Klingt das Lied auch nicht ergötzlich, Hat’s mich doch von Angst befreit.Dịch Trong đêm tối đời tôi Một ảnh hình đã chói Hình ấy cũng không còn Tôi trong đêm vây phủ Những đứa trẻ trong đêm Nghe trái tim trĩu nặng Chúng bỗng hát to lên Để làm tan lo lắng Và tôi tôi cũng hát Trong đêm tối đời tôi Nếu như không vui được Tim tôi đỡ bồi hồi

Anh đã thấy

Ich seh im Stundenglase schon Den kargen Sand zerinnen. Mein Weib, du engelsüße Person! Mich reißt der Tod von hinnen. Er reißt mich aus deinem Arm, mein Weib, Da hilft kein Widerstehen Er reißt die Seele aus dem Leib – Sie will vor Angst vergehen. Er jagt sie aus dem alten Haus, Wo sie so gern bliebe. Sie zittert und flattert – wo soll ich hinaus? Ihr ist wie dem Floh im Siebe. Das kann ich nicht ändern, wie sehr ich mich sträub, Wie sehr ich mich winde und wende; Der Mann und das Weib, die Seel und der Leib, Sie müssen sich trennen am Ende.Dịch Trong chiếc đồng hồ cát Cát đã chảy hết rồi, Người vợ hiền, em hỡi! Anh sắp chết đến nơi. Cái chết chia rẽ ta, Có ích gì, chống lại? Thân thể lìa linh hồn, Linh hồn đầy sợ hãi. Cái chết đuổi linh hồn, Khỏi căn nhà quen thuộc. Linh hồn run lẩy bẩy Hỏi: Tôi sẽ đi đâu? Ta chống cự được nào, Vùng vẫy cũng vô ích, Anh và em cuối cùng Phải cùng nhau ly biệt.

Cặn bã Lumpentum

Die reichen Leute, die gewinnt Man nur durch platte Schmeichelein – Das Geld ist platt, mein liebes Kind, Und will auch platt geschmeichelt sein. Das Weihrauchfaß, das schwinge keck Vor jedem göttlich goldnen Kalb; Bet an im Staub, bet an im Dreck, Vor allem aber lob nicht halb. Das Brot ist teuer dieses Jahr, Jedoch die schönsten Worte hat Man noch umsonst – Besinge gar Mäcenas’ Hund, und friß dich satt!Dịch Đối với bọn nhà giàu Thì buông lời nịnh hót Đồng tiền, hình nó lép Nên phải lép mình đi Trước cục vàng thật to Đốt trầm hương lên nhé Hãy vục đầu trong bùn Và ngợi ca hết lẽ Năm nay bánh mì đắt Nói cũng chẳng được nào Hãy sủa như con chó Rồi thì vào ăn sau

Chiếc tàu buôn người da đen

I Der Superkargo Mynheer van Koek Sitzt rechnend in seiner Kajüte; Er kalkuliert der Ladung Betrag Und die probabeln Profite. »Der Gummi ist gut, der Pfeffer ist gut, Dreihundert Säcke und Fässer; Ich habe Goldstaub und Elfenbein – Die schwarze Ware ist besser. Sechshundert Neger tauschte ich ein Spottwohlfeil am Senegalflusse. Das Fleisch ist hart, die Sehnen sind stramm, Wie Eisen vom besten Gusse. Ich hab zum Tausche Branntewein, Glasperlen und Stahlzeug gegeben; Gewinne daran achthundert Prozent, Bleibt mir die Hälfte am Leben. Bleiben mir Neger dreihundert nur Im Hafen von Rio-Janeiro, Zahlt dort mir hundert Dukaten per Stück Das Haus Gonzales Perreiro.« Da plötzlich wird Mynheer van Koek Aus seinen Gedanken gerissen; Der Schiffschirurgius tritt herein, Der Doktor van der Smissen. Das ist eine klapperdürre Figur, Die Nase voll roter Warzen – »Nun, Wasserfeldscherer«, ruft van Koek, »Wie geht’s meinen lieben Schwarzen?« Der Doktor dankt der Nachfrage und spricht: »Ich bin zu melden gekommen, Daß heute nacht die Sterblichkeit Bedeutend zugenommen. Im Durchschnitt starben täglich zwei, Doch heute starben sieben, Vier Männer, drei Frauen – Ich hab den Verlust Sogleich in die Kladde geschrieben. Ich inspizierte die Leichen genau; Denn diese Schelme stellen Sich manchmal tot, damit man sie Hinabwirft in die Wellen. Ich nahm den Toten die Eisen ab; Und wie ich gewöhnlich tue, Ich ließ die Leichen werfen ins Meer Des Morgens in der Fruhe. Es schossen alsbald hervor aus der Flut Haifische, ganze Heere, Sie lieben so sehr das Negerfleisch; Das sind meine Pensionäre. Sie folgten unseres Schiffes Spur, Seit wir verlassen die Küste; Die Bestien wittern den Leichengeruch Mit schnupperndem Fraßgelüste. Es ist possierlich anzusehn, Wie sie nach den Toten schnappen! Die faßt den Kopf, die faßt das Bein, Die andern schlucken die Lappen. Ist alles verschlungen, dann tummeln sie sich Vergnügt um des Schiffes Planken Und glotzen mich an, als wollten sie Sich für das Frühstück bedanken.« Doch seufzend fällt ihm in die Red’ Van Koek: »Wie kann ich lindern Das Übel? wie kann ich die Progression Der Sterblichkeit verhindern?« Der Doktor erwidert: »Durch eigne Schuld Sind viele Schwarze gestorben; Ihr schlechter Odem hat die Luft Im Schiffsraum so sehr verdorben. Auch starben viele durch Melancholie, Dieweil sie sich tödlich langweilen; Durch etwas Luft, Musik und Tanz Läßt sich die Krankheit heilen.« Da ruft van Koek: »Ein guter Rat! Mein teurer Wasserfeldscherer Ist klug wie Aristoteles, Des Alexanders Lehrer. Der Präsident der Sozietät Der Tulpenveredlung im Delfte Ist sehr gescheit, doch hat er nicht Von Eurem Verstande die Hälfte. Musik! Musik! Die Schwarzen soll’n Hier auf dem Verdecke tanzen. Und wer sich beim Hopsen nicht amüsiert, Den soll die Peitsche kuranzen.« II Hoch aus dem blauen Himmelszelt Viel tausend Sterne schauen, Sehnsüchtig glänzend, groß und klug, Wie Augen von schönen Frauen. Sie blicken hinunter in das Meer, Das weithin überzogen Mit phosphorstrahlendem Purpurduft; Wollüstig girren die Wogen. Kein Segel flattert am Sklavenschiff, Es liegt wie abgetakelt; Doch schimmern Laternen auf dem Verdeck, Wo Tanzmusik spektakelt. Die Fiedel streicht der Steuermann, Der Koch, der spielt die Flöte, Ein Schiffsjung’ schlägt die Trommel dazu, Der Doktor bläst die Trompete. Wohl hundert Neger, Männer und Fraun, Sie jauchzen und hopsen und kreisen Wie toll herum; bei jedem Sprung Taktmäßig klirren die Eisen. Sie stampfen den Boden mit tobender Lust, Und manche schwarze Schöne Umschlinge wollüstig den nackten Genoß – Dazwischen ächzende Töne. Der Büttel ist Maître des plaisirs, Und hat mit Peitschenhieben Die lässigen Tänzer stimuliert, Zum Frohsinn angetrieben. Und Dideldumdei und Schnedderedeng! Der Lärm lockt aus den Tiefen Die Ungetüme der Wasserwelt, Die dort blödsinnig schliefen. Schlaftrunken kommen geschwommen heran Haifische, viele hundert; Sie glotzen nach dem Schiff hinauf, Sie sind verdutzt, verwundert. Sie merken, daß die Frühstückstund’ Noch nicht gekommen, und gähnen, Aufsperrend den Rachen; die Kiefer sind Bepflanzt mit Sägezähnen. Und Dideldumdei und Schnedderedeng – Es nehmen kein Ende die Tänze. Die Haifische beißen vor Ungeduld Sich selber in die Schwänze. Ich glaube, sie lieben nicht die Musik, Wie viele von ihrem Gelichter. »Trau keiner Bestie, die nicht liebt Musik!« sagt Albions großer Dichter. Und Schnedderedeng und Dideldumdei – Die Tänze nehmen kein Ende. Am Fockmast steht Mynheer van Koek Und faltet betend die Hände: »Um Christi willen verschone, o Herr, Das Leben der schwarzen Sünder! Erzürnten sie dich, so weißt du ja, Sie sind so dumm wie die Rinder. Verschone ihr Leben um Christi will’n, Der für uns alle gestorben! Denn bleiben mir nicht dreihundert Stück, So ist mein Geschäft verdorben.«Dịch I Tên lái buôn Văn Cốc Ngồi trong khoang tính tiền Hắn tính giá sản vật Và món lời làm ăn. “Sơn tốt, tiêu cũng tốt Ta có ba trăm thùng Có ngà voi, vàng bột Quý nhất món da đen. Sáu trăm tên nhặt được Trên bờ Xenêgan Thịt chắc và gân khoẻ Chẳng khác gì đồng đen. Ta đổi chúng với rượu Với chén đĩa thuỷ tinh Lời tám trăm phần trăm Chỉ cần một nửa sống Nếu còn ba trăm mống Đến cảng Brêdi Hãng buôn Gôngdalét Tính trăm đồng một tên” Bỗng thình lình Văn Cốc Thức tỉnh cơn mơ tiền Bác sĩ trên thuyền đến Tên là Văn Mitxen. Một con người khô đét Mũi đỏ như quả cà “Bác sĩ ơi cho biết Bọn da đen của ta?” Bác sĩ vội trả lời “Tôi đến tin ngài rõ Đêm nay số từ vong Lại nhích lên cao quá! Mỗi ngày chết hai thằng Lần này chết đến bảy Tôi đã ghi rõ ràng Trong sổ, ngài sẽ thấy. Tôi có khám tử thi Vì sợ bọn nói dối Giả chết để ta quăng Chúng nó xuống biển lội Tôi đã lột dây buộc Theo thói quen của tôi Và ném thây xuống biển Khi thức dậy buổi mai. Tôi bỗng thấy từ sóng Bọn cá mập từng đàn Chúng thích thịt da đen Tôi thành người nuôi chúng Bọn cá mập theo tàu Từ khi ta rời bến Chúng đánh hơi thịt người Chúng cũng sành ăn lắm. Rất buồn cười khi nhìn Chúng đớp những xác chết Đứa ngoạm đầu, ngoạm chân Rứt ra từng miếng thịt. Ăn xong chúng nhép miệng Vui vẻ bơi quanh thuyền Nhìn tôi mắt thao láo Như cảm ơn cho ăn” Văn Cốc cắt lời bảo: “Phải ngăn tai nạn kia Làm sao cho bọn chúng Từ đây bớt chết đi?” Tên bác sĩ đáp ngay: “Bọn đen chết tại chúng Đã làm cho hôi hám Không khí trong tàu này. Nhiều đứa chết vì buồn Chúng nó nhớ xứ sở Có đôi chút trò vui Là cứu lành bọn nó” Văn Cốc vội nói to “Bác sĩ ơi, tốt tốt Ông là một triết gia Hơn cả Arixtốt …Âm nhạc và âm nhạc Ta tổ chức cuộc vui Thằng nào không chịu chơi Ta sẽ quất vào đít”. II Từ trên vòm trời cao Nghìn ngôi sao dòm xuống Những mắt đầy ham muốn Như những mắt đàn bà Những ngôi sao nhìn xuống Biển trong trẻo bao la Ánh lân tin lấp lánh Sóng kêu gọi thiết tha Trên chiếc tàu buôn người Buồn hạ không giương gió Đèn sáng trên sàn tàu Nổi điệu nhạc khiêu vũ Người lái: violông Người bếp thổi ống sáo Một thuỷ thủ đánh trống Bác sĩ thì thổi kèn Tám trăm người da đen Quay cuồng trong điệu nhảy Cứ mỗi bước xoay tròn Xích xiềng kêu muốn gãy Đạp chân mạnh trên sàn Ôm nhau hôn cháy khát Những thân thể trần truồng. Thỉnh thoảng buông tiếng nấc Tên đứng ra tổ chức Chính là tên giết người Cầm chiếc roi cứ vụt Bắt họ phải vui chơi Tralala, đing-đông Cuộc vui gọi dưới vực Bọn cá mập nổi lên Như chúng vừa thức giấc Bọn chúng nhích lại gần Hàng trăm con cá mập Ngước mắt nhìn lên tàu Đầy ngạc nhiên háo hức Chờ đợi bữa ăn sáng Chúng ngáp ngắn ngáp dài Há cái mồm to tướng Răng nhọn hoắt như cưa Tralala đing-đông Cuộc khiêu vũ không dứt Bọn cá mập bực mình Cắn đuôi nhau rậm rực …Tralala, đing-đông Cuộc khiêu vũ kéo mãi Lão chủ hôn cột buồm Chấp hai tay khấn vái; Lạy Chúa xin tha chết Cho cái bọn da đen Chúng có đụng đến Chúa Tại chúng quá ngu hèn Cho chúng sống Chúa ơi! Vì người Chúa đã chết Không đủ ba trăm thằng Thì đời tôi sạt nghiệp!”

Đồi và nhà Berg’ und Burgen schaun herunter

Berg’ und Burgen schaun herunter In den spiegelhellen Rhein, Und mein Schiffchen segelt munter, Rings umglänzt von Sonnenschein. Ruhig seh ich zu dem Spiele Goldner Wellen, kraus bewegt; Still erwachen die Gefühle, Die ich tief im Busen hegt. Freundlich grüßend und verheißend Lockt hinab des Stromes Pracht; Doch ich kenn ihn, oben gleißend, Birgt sein Innres Tod und Nacht. Oben Lust, im Busen Tücken, Strom, du bist der Liebsten Bild! Die kann auch so freundlich nicken, Lächelt auch so fromm und mild.Dịch nghĩaĐồi và nhà soi bóng xuống dưới dòng sô Ranh sáng như gương và thuyền của tôi xuôi buồm nhanh chóng xung quanh ánh mặt trời chiếu lung linh Tôi nhìn những trò chơi của những con sóng vàng một cách bình tĩnh chuyển động lăn tăn; những cảm xúc bừng tỉnh nhẹ nhàng, (những cảm xúc) mà tôi giữ sâu trong ngực Chào hỏi vui vẻ và hứa hẹn vẻ lộng lẫy của dòng sông dụ dỗ nhưng mà tôi biết dòng sông ấy, phía trên chói sáng che dấu bên trong là cái chết và đêm tối. Bên trên (là)niềm tự hào, trong ngực (là) sự nham hiểm Dòng sông ơi, ngươi là hình ảnh đẹp nhất! Hình ảnh này có thể gật đầu vui vẻ, cũng cười hiền lành và dịu dàng.

Hãy chờ xem

Weil ich so ganz vorzüglich blitze, Glaubt ihr, daß ich nicht donnern könnt! Ihr irrt euch sehr, denn ich besitze Gleichfalls fürs Donnern ein Talent. Es wird sich grausenhaft bewähren, Wenn einst erscheint der rechte Tag; Dann sollt ihr meine Stimme hören, Das Donnerwort, den Wetterschlag. Gar manche Eiche wird zersplittern An jenem Tag der wilde Sturm, Gar mancher Palast wird erzittern Und stürzen mancher Kirchenturm!Dịch Vì tôi có ánh chớp, Anh tưởng không sấm gầm, Anh đã nhầm, anh bạn! Tôi có sấm gầm vang. Rồi sẽ có một ngày Chúng ta cùng chứng kiến, Anh sẽ nghe tiếng tôi Thét to như sét đánh Và ngày đó bão giông Sẽ làm cây bật rễ, Sẽ làm đổ nhà thờ, Các lâu đài hoàng đế.

Thư gửi mẹ An meine Mutter

I. Ich bin’s gewohnt den Kopf recht hoch zu tragen, Mein Sinn ist auch ein bischen starr und zähe; Wenn selbst der König mir in’s Antlitz sähe, Ich würde nicht die Augen niederschlagen. Doch, liebe Mutter, offen will ich’s sagen: Wie mächtig auch mein stolzer Muth sich blähe, In deiner selig süßen, trauten Nähe Ergreift mich oft ein demuthvolles Zagen. Ist es dein Geist, der heimlich mich bezwinget, Dein hoher Geist, der Alles kühn durchdringet, Und blitzend sich zum Himmelslichte schwinget? Quält mich Erinnerung, daß ich verübet So manche That, die dir das Herz betrübet, Das schöne Herz, das mich so sehr geliebet? II. Im tollen Wahn hatt’ ich dich einst verlassen, Ich wollte gehn die ganze Welt zu Ende, Und wollte sehn ob ich die Liebe fände, Um liebevoll die Liebe zu umfassen. Die Liebe suchte ich auf allen Gassen, Vor jeder Thüre streckt’ ich aus die Hände, Und bettelte um gringe Liebesspende, – Doch lachend gab man mir nur kaltes Hassen. Und immer irrte ich nach Liebe, immer Nach Liebe, doch die Liebe fand ich nimmer, Und kehrte um nach Hause, krank und trübe. Doch da bist du entgegen mir gekommen, Und ach! was da in deinem Aug’ geschwommen, Das war die süße, langgesuchte Liebe.Dịch I. Con thường sống ngẩng cao đầu mẹ ạ Tính tình con hơi ngang bướng kiêu kỳ Nếu có vị chúa nào nhìn con vào mắt Con chẳng bao giờ cuối mặt trước uy nghi Nhưng mẹ ơi, con xin thú thật Trái tim con dù kiêu hãnh thế nào Đứng trước mẹ dịu dàng chân chất Con thấy mình bé nhỏ làm sao Có phải tinh thần mẹ diệu kỳ soi thấu Như bay lên vừng ánh sáng cao siêu Hay bao nỗi buồn xưa nung nấu Trái tim mẹ hiền đùm bọc đứa con yêu. II. Trong cơn mê, con từ mẹ ra đi Con muốn đi tận cùng trời đất Để tìm kiếm tình yêu đẹp nhất Trong đôi cánh tay con sẽ ôm ghì Con tìm tình yêu khắp nơi khắp nẻo Con đập vào các cửa mỏi rời tay Con đã van xin như một kẻ ăn mày Nhưng chỉ nhận những cái nhìn lạnh lẽo Tìm không thấy tình yêu con trở về bên mẹ Tâm trí chán chê, thân thể rã rời Con bỗng thấy một tình yêu chân thật Trong đôi mắt dịu hiền của mẹ, mẹ ơi.
Tế Hanh là một thi sĩ mang danh được nhiều bạn đọc yêu mến và tìm kiếm. Những bài dịch của tác giả Heinrich Heine đã mang tên tuổi của ông lên một tầm cao mới trong văn đàn được người đời ca tụng mạnh mẽ. Hãy đón xem và cảm nhận những thi phẩm xuất sắc đó của ông các bạn nhé!