Bên cạnh việc sáng tác thơ ca, Tản Đà còn rất giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát. Và ông cũng được biết đến như là một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất. Trong số các bài thơ đã dịch, Tản Đà đã dành một phần lớn thời gian để dịch thơ của Bạch Cư Dị. Bởi ông có sự cảm nhận và đồng điệu sâu sắc với hồn thơ của nhà thơ này. Qua các bài thơ dịch ta cũng cảm nhận sâu sắc điều đó. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bài thơ Tản Đà dịch của Bạch Cư Dị nhé!

Chiêu Quân từ kỳ 1

Cát Hồ đầy mặt, gió đầy tai, Mực nhạt mày xanh, má đỏ phai. Khổ sở lo buồn tiều tuỵ thế, Mới là tranh vẽ giống như ai.

Chu trung dạ vũ

Mây sông kéo đến đùn đùn Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách ông Mưa đêm nhỏ xuống nan bồng Sóng đêm dồn vỗ long đong mạn thuyền Trong thuyền có bác ốm rên Giáng quan thằng lối ra miền Giang Châu

Dạ vũ

Dế giun rên mỏi lại ngừng, Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra. Cách song đêm biết mưa sa, Tiếng nghe lộp độp chăng là tàu tiêu.

Dĩ kính tặng biệt

Ai rằng: gương sáng như trăng, Ta rằng: trăng sáng chưa bằng gương soi. Trăng kia thật sáng vẹn mười, Một năm lại khuyết mười hai bận đầy. Sao bằng trong hộp ngọc này, Trong như nước đứng ngày ngày năm năm. Nào khi trăng khuyết trời âm. Gương đầy tròn sáng như rằm trăng soi. Buồn ta già xấu hơn người, Đốm quanh mái tóc bời bời tuyết in. Chẳng bằng cho bạn thanh niên, Để soi tóc trẻ xanh rền sợi tơ. Anh nay nghìn dặm đi xa, Cầm gương ta để làm quà tiễn nhau.

Đại Lâm tự đào hoa

Tháng tư hoa đã hết mùa, Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay. Xuân về kín chốn ai hay, Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.

Đại mại tân nữ tặng chư kỹ

Đầu bù khăn vải trùm tai, Trèo non gánh củi sương mai lạnh lùng, Tiền Đường cũng gái bên sông. Mà đâu yên ngựa quần hồng là ai?

Đông chí túc Dương Mai quán

Dài nhất một đêm trong tháng một, Ngoài ba nghìn dặm kẻ đi xa. Dương Mai quán khách mình ai ngủ, Gối lạnh giường đơn ốm thế mà.

Giang lâu vãn thiếu cảnh vật tiên kỳ ngâm ngoạn thành thiên ký Thuỷ bộ Trương Tịch viên ngoại

Nhạt thưa mưa khói, lẫn tà dương, Sông biển xinh thay! mát lạ nhường. Lầu thẩn tan hình mây vén lại, Cầu vồng đứt bóng nước soi ngang. Gió bay sóng trắng hoa nghìn phiến, Nhạn chấm trời xanh chữ một hàng. Xanh đỏ muốn đem mà vẽ lấy, Đề thơ gửi bác Thủy tào lang.

Giang thượng địch

Đêm, ai thổi sáo trên sông, Vườn xuân tiếng tiếng gửi lòng ai đâu ? Ai nghe, luống những bạc đầu, Nữa chi ít ngủ, nhiều sầu như ai ?

Hí đề tân tài tường vi

Chớ chi dời đổi mang sầu Trước sân ngoài ruộng chung màu một xuân Quan đây không vợ, buồn xuân Tường vi hoa nở phu nhân là mày.

Hoạ Đỗ lục sự đề hồng diệp

Lạnh lùng buổi sáng tháng mười, Lá sương phơi núi cùng thời mới sao! Như thiêu chẳng lửa mà thiêu, Như hoa chẳng đợi xuân nào mới hoa. Liền hàng, màn tía bày ra, Rơi tung, xếp nếp khăn là đỏ ghê! Muốn xem, dừng xuống kiệu tre, Đứng chơi ngọn gió chỉ ta hai người.

Hữu nhân dạ phỏng

Thềm cao gió mát chiếu đan, Chén soi bóng nguyệt bàn hoàn dưới thông. Lòng riêng đương thú với lòng. Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.

Khúc giang tuý hậu tặng chư thân cố

Đồng kia, mả đó, người đâu? Bên sông xuân sắc cùng nhau mấy ngày? Thú chi hơn chén rượu đầy, Bạn thân ta hỡi, sum vầy chớ xa. Thuốc tiên sống mãi họa là, Cõi trần cái chết dễ mà tha ai! Khi say ta mở miệng cười, Ngoài ra, bao ná việc đời vướng chi!

Khuê oán từ kỳ 1

Ríu rít tan sương ghét cái oanh, Đêm ghen cặp én đỗ chung cành Chẳng quen ly biệt xuân qua trải, Chỉ biết kêu hoài lúc sang banh.

Ký Tương Linh

Lạnh rơi nước mắt cóng không trôi Ngoảnh lại đòi khi bước núi đồi Xa biết lầu tây sau lúc biệt Lan can buồn tựa một mình ai!

Ký Vi Chi kỳ 1

Châu Giang mà ngóng châu Thông, Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào? Núi đâu muôn trượng kìa cao, Sông sâu ngàn dặm, rộng sao rộng mà! mây che mù tỏa bao la, Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm. Hiểm xưa còn đó ngàn năm, Ai hay trời để chơi khăm đôi người. Châu Thông bác mới tới nơi, Mối sầu như thắt ngậm ngùi chiếc thân. Châu Giang tôi mới đi dần, Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi. Quan hà ngày một chia khơi, Tăm hơi ngày bẵng tăm hơi một ngày. Gió đưa muốn gửi câu này, Tiếng không suốt đến vì mày đất xa! Sống còn gặp gỡ đôi ta, Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.

Lâm giang tống Hạ Chiêm

Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu Bảy mươi tuổi tác cửa nhà đâu? Buồn trông trận gió theo thuyền nổi Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu

Lý Bạch mộ

Bên sông Thái Thạch mồ ai? Vùng quanh man mác chân trời cỏ non Gò hoang, suối thẳm, xương mòn. Long trời lở đất hãy còn văn chương. Làng thơ mệnh bạc thế thường, Mà trong lẫn đẫn anh nhường ai hơn.

Phong vũ vãn bạc

Rừng tre khóm sậy thú bên sông, Đỗ lại con thuyền bát ngát trông. Mưa cữ, rêu xuân xanh đất giải. Ngày thâu, sóng gió bạc trời tung. Trăm năm phút chốc toàn non nửa, Muôn việc trần gian có hóa không. Xiêu giạt bao giờ yên chốn nhỉ? Sống trong trời đất một lông hồng.

Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt

Đồng cao cỏ mọc như chen Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn. Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn, Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi. Xa xa thơm ngát dặm dài, Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa. Vương tôn đi lại tiễn đưa, Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.

Sinh ly biệt

Sung, mơ ăn khó, ai ơi! Sung ăn thời chát, mơ thời chua sao! Chưa bằng sống biệt ly nhau, Ruột gan chua chát lại đau bội phần. Lần trăng gà gáy hai lần, Hét luôn tiếng ngựa giục dần khách ra. Trông nhau một tiếng khóc òa, Mơ chua, sung chát như là mật ngon. Nước sông trắng, mây vàng tuôn, Kẻ đi người ở cơn buồn bên sông. Ngủ đâu? Trời lạnh đồng không ! Đìu hiu ngọn gió loạn rung lá đường! Biệt ly lúc ấy lạ nhường! Mối lo chẳng dứt từ phương hướng nào? Quá lo, huyết khí tiêu hao, Chưa ba mươi tuổi tóc sao trắng rồi?

Sơn hạ túc

Một mình tới ngủ non xanh, Lặng êm dưới bóng trăng thanh bước nhìn. Suối đâu? Cối nước liền bên, Chày đâm vân mẫu kìn kìn tiếng đêm.

Tam niên biệt

Xa nhau một chuyến ba năm, Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau. Trời xanh, trăng sáng, lòng đau, Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn.

Tảo thu độc dạ

Giếng vàng lay động lá ngô, Mỏ chày hàng xóm tiếng thu đã truyền. Một mình ngủ dưới mái hiên, Tỉnh ra trăng sáng nửa bên giường nằm.

Tặng nội (I)

Tình lúc sống một nhà cùng ở, Chết ra tro, một hố cùng chung. Khuyên nhau thiên hạ cũng cùng. Nữa chi mình vợ, ta chồng cùng nhau? Kìa như gã Kiềm Lâu cùng sĩ, Cảnh nhà nghèo vợ nghĩ như không. Nông phu Ký Khuyết cày đồng, Vợ chàng quý trọng coi chồng khách sang. Đào Tiềm chẳng lòng toan sinh lý, Củi nấu ăn, Địch thị kiếm dần. Lương Hồng quan chẳng chịu mần, Mạnh Quang chỉ vải may quần cũng ưa, Mình dẫu đọc sách xưa không mấy, Các truyện kia hẳn thấy quen tai. Nghìn năm còn lại ở đời, Đến nay cùng nói là người như sao? Người chưa chết lúc nào còn sống, Chẳng ai mà quên bỗng được thân, Cái ăn cái mặc là cần. Cũng sao no ấm qua lần là xong. Cơm rau đủ no lòng lúc đói. Có cần chi thức tối cao lương, Lụa the, rét đủ mặc thường, Cần chi áo gấm xông hương vẽ vời? Nhà mình có để đời câu dạy: Lấy “sạch trong” cho lại cháu con. Ta đây cũng một lòng son. Cùng nàng buổi mới vuông tròn thất gia, Giữ sao nghèo sạch nếp nhà, Cùng nhau cho đến tuổi già cùng vui.

Tần trung ngâm kỳ 07 – Khinh phì

Đầy đường dáng bộ con cưng, Ngựa yên bóng nhoáng, sáng trưng bụi hồng. Hỏi: làm chi đó những ông? Người ta rằng: lũ quan trong đó mà. Dải điều đều đại phu ta, Mà đeo dải tía, hoặc là tướng quân. Khuênh khoang đi chén trong quân, Rộn ràng vó ngựa chạy vần như mây. Vò, ang chín thứ rượu đầy, Hải sơn tám bát cỗ bày linh tinh. Quả dâng, quýt hái Động Đình, Cá Thiên Trì thái, đơm thành gỏi ngon. Ăn no, khoan khoái tâm hồn, Rượu say, ý khí hùng hồn càng thêm. Năm nay hạn hán Giang Nam, Cồ Châu người mổ người làm thức ăn.

Thu giang tống khách

Nhạn thu lần lượt bay qua Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai Ngày nào một chiếc thuyền ai Nước non này cũng chia phôi cánh đàn Mưa dầm vạt áo như chan Buồm ai man mác mây ngàn đón ngang Chẳng say chén rượu Tầm Dương Khỏi sao sóng khói sầu thương chết người

Thu mộ giao cư thư hoài

Ở quê, thưa ít việc người, Giữa trưa nằm khểnh, ngắm coi núi đèo. Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều, Lạnh lùng chi sớm, cảnh nghèo thêm lo. Áo lương còn mặc mùa thu, Ốm đau, sách vẫn đôi pho chẳng rời. Lấy chi qua sống ngày trời? Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.

Thu sơn

Ốm lâu, nằm mãi buồn sao! Sáng nay ta mới lên cao hỡi lòng. Màu thu, mây núi lạnh lùng. Thanh hao nét mặt, ưa cùng ta đây. Nằm gối đá, đi vin dây, Dây xanh đá trắng đẹp thay cảnh tình! Thú vui trong dạ một mình, Thâu ngày quên tưởng cái hình về đâu. Người ta sống có bao lâu, Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời. Mối lo mang lấy nghìn đời, Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân. Bao giờ giũ sạch lụy trần ? Lại đây đóng cửa vui phần núi non.

Thu trùng

Tiếng đâu dưới vách kêu ran? Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ non. Trời thu gái nhớ chồng son, Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai.

Trì thượng

Người xinh bơi chiếc thúng xinh, Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về. Hớ hênh dấu vết không che, Trên ao để một luồng chia mặt bèo.

Trung thu nguyệt

Bóng đâu? Trong sáng vô ngần! Sầu thêm, giận đắm cõi trần khắp nơi. Đóng lâu đồn thú kia ai, Biệt ly buổi mới đâu người trước sân? Canh khuya, ai đó phi tần, Vua không yêu nữa tần ngần về cung. Biên thành thế giữ không xong, Bạc đầu, ông tướng thong dong lên chòi. Soi cho đứt ruột bao người, Thiềm thừ, ngọc thỏ trên trời biết chi!

Trường hận ca

Đức vua Hán mến người khuynh quốc Trải bao năm tìm chuốc công tai Nhà Dương có gái mới choai Buồn xuân khoá kín chưa ai bạn cùng Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên Một cười trăm vẻ thiên nhiên Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa Vua yêu bận ấy mới là Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái Màn phù dung êm ái đêm xuân Đêm xuân vắn vủn có ngần Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm Ba ngìn xinh đẹp chị em Ba ngìn yêu quí chất nêm một mình Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân Anh em sướng đủ mọi phần Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết Làn gió đưa cao tít Ly cung Suốt ngày múa hát thung dung Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến Khúc Nghê Thường tan biến như không Chín lần thành khuyết bị tung Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam Đi lại đứng hơn trăm dậm đất Cờ thuý hoa bóng phất lung lay Sáu quân rúng rắng làm rầy Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi! Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất Ôi! Thuý Kiều ngọc nát vàng phai Quân vương bưng mặt cho rồi Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn Gió tung bụi mê man tản mác Đường thang mây Kiếm Các lần đi Vắng tanh, dưới núi Nga My Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh Đát Ba Thục non xanh nước biếc Lòng vua cha thương tiếc hôm mai Thấy trăng luống những đau người Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông Phút trời đất quay cuồng vận số Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa Đất bùn chỗ chết còn trơ Thấy đâu mặt ngọc! Bây giờ Mã Ngôi! Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ Gióng dây cương, ngựa tế về đông Cảnh xua dương liễu, phù dung Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười Phù dung đó, mặt ai đâu tá? Mày liễu đâu? Cho lá còn như Càng trông hoa liễu năm xưa Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm Xuân đào lý gió đêm huê nở Thu khi mưa rụng lá ngô đồng Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi? Vườn lê cũ những ai con hát? Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng Những ai coi giữ tiêu phòng? Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn Trước cung điện nhìn sân đêm tối Đom đóm bay gợi mối u sầu Ngọn đền khêu đã cạn dầu Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong! Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống Năm canh dài chẳng giống đêm xưa Sông Ngân lấp lánh sao thưa Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời? Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh Trong chăn nằm bên cạnh nào ai? Cách năm sống thác đôi nơi Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng? Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông Xót vì vua chúa nhớ nhung Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay Cưỡi luồng gió như bay như biến Tren trời xanh, dưới đến đất đen Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi! Sực nghe nói tìm đi mé bể, Có non tiên ngoài phía hư không Rỡ ràng cugn điện linh lung Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao! Trong tha thướt biết bao tiên tử Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân Mặt hoa da tuyết trắng ngần Dáng như người ấy có phần phải chăng? Mái tây gõ cửa vàng then ngọc Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành Nghe tin sứ giả Hán Đình Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực, Mở rèm châu, bình bạc lần ra Bâng khoâng nửa mái mây tà Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu Phớt tay áo bay màu ngọn gió Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã Đội ơn lòng, xin tạ quân vương Từ ngày cách trở đôi phương Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong Nơi đế điện dứt vòng ân ái Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày Cõi trần ngoảnh lại mà hay Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ! Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú? Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi Thoa vàng hộp khảm phân đôi Nửa xin để lại nửa thời đem đi Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc Tựa hoa vàng bền chắc không phai Thời cho cách trở đôi nơi Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau Ân cần dặn mấy câu lâm biệt Lời thề xưa lòng biết với lòng Là đêm trùng thất ngồi chung Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người Xin kết nguyện chim trời liền cánh Xin làm cây cành nhánh liền nhau Thấm chi trời đất dài lâu Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi…

Túc Chương Đình dịch

Nửa đêm ở trạm Chương Đình, Người buồn trở dậy nặng tình hương quan Dưới trăng trông ngóng lan man, Nước trào trắng xóa một làn trăng soi.

Tùng thanh

Trăng trong ngồi mát một mình, Hai cây thông đứng hữu tình trước hiên Nhẹ nhàng cơn gió đưa lên, Luồn cành lá, đến tự miền tây nam. Bóng trăng sáng nửa chừng đêm, Lào rào nghe tiếng gió làm tuôn đưa. Ào ào núi rét sa mưa, Đờn cầm thu nảy dây tơ lạnh lùng. Một nghe, rửa sạch cơn nồng, Hai nghe bức bối trong lòng phá tan. Thâu đêm thức mãi bàn hoàn, Dạ khoan khoái dạ, mình khoan khoái mình. Đường nam xe ngựa rình rình, Xóm tây tiếng hát, tiếng sênh rộn ràng. Ai hay này chỗ hành lang, Đầy tai nghe vẫn êm thường như không.

Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ

Đường kia sắp bắc từ nam, Mối lo ly biệt anh em cùng sầu. Quan hà ngàn dặm xa nhau, Người đi gió tuyết dãi dầu một thân. Hồn quê nhọc giấc đêm xuân, Sắm sanh hành lý tần ngần sớm mai. Nhà nghèo lo tính xa xôi, Đường xa nghĩ nỗi ngày trời ngắn không. Nhạn sa bến lạnh khói lồng Thành xưa lũ quạ họp trong sương mờ. Ai thương kẻ bước lên gò ? Sở Tây trông ngóng bây giờ Kinh Nam.

Tự khuyến

Nhớ xưa nghèo túng lúc khoa thi. Bến Khúc thèm men, cố áo đi. Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt. Nữa chi lộc nước mất tiền chi!

Văn dạ châm

Nhà ai, cô gái nhớ chồng, Đêm thu đập lụa, lạnh lùng gió trăng? Chày giơ nện đá phăng phăng Tháng tám, tháng chín, đêm hằng dài thay. Luôn luôn nghìn vạn tiếng chày, Chày thêm một tiếng, thêm đầy sợi tơ, Sáng ra đầu đã trắng phơ.

Văn khốc giả

Mới hôm nọ, xóm nam người khóc, Tiếng khóc sao đau độc nỗi lòng? Rằng: Đâu là vợ khóc chồng, Chồng hai nhăm tuổi, khuất vòng nhân gian. Sớm nay lại khóc than xóm bắc, Tiếng khóc sao ruột thắt từng cơn? Rằng: Đâu là mẹ khóc con, Con mười bảy, tám, chết còn tuổi xanh. Bốn hàng xóm chung quanh như thế, Khắp thế gian chết trẻ còn nhiều. Mới hay người thế bao nhiêu, Trắng phơ mái tóc dễ nào mấy ai? Ta nay tuổi có ngoài bốn chục, Nghĩ ai kia, thôi cũng vui lòng. Từ nay trong bức gương trong, Đầu ta ngỡ tuyết, ta không quản gì.

Vấn Hoài thuỷ

Trong vòng danh lợi thương ta, Cái thân nhăng nhít cho qua với đời. Việc chi, hỡi nước sông Hoài ? Cũng không thong thả, miệt mài về đông ?

Vọng giang lâu thượng tác

Bờ sông trăm thước lầu cao, Trước lầu nghìn dặm đi đâu con đường ? Tựa cao trông xuống dặm trường, Mà trong bụng nghĩ như nhường khoan thư. Đường quan rộn kẻ đưa thư, Quân gia láo nháo ngẩn ngơ canh phòng. Cuộc đời gặp lúc rối tung, Riêng ai ở cảnh thong dong càng mầu. Đã hơn bốn chục tuổi đầu, Từ nay về nghỉ ngõ hầu phải thôi. Từ nay giũ áo trần ai. Non xanh tình thú vui chơi chửa già…

Xuân giang

Lần thâu nóng lạnh hôm mai, Trung châu nào biết đã hai năm tròn Sớm hôm bên gác trống dồn, Trước lầu qua lại coi buồn thuyền xa. Tiếng oanh rủ lại dưới hoa, Cỏ non bến nước cho ta mải ngồi. Sông xuân xem mãi chưa rồi, Quẩn quanh sỏi đá cuốn trôi theo dòng.
Trên đây là các bài thơ Tản Đà dịch Bạch Cư Dị. Ở hai hồn thơ này ta cảm nhận được sự đồng điệu sâu sắc. Đó là cái nhìn về cuộc sống, con người của hai nhà thơ lớn. Vì vậy thơ dịch của ông cũng được đánh giá rất cao. Bên cạnh tác giả lớn như Bạch Cư Dị, Tản Đà còn dịch thơ của nhiều tác giả khác . Đừng quên theo dõi những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cảm nhận bạn nhé!