Em làm gì đó, em may gì đó?
Mit csinálsz, mit varrogatsz ott? A ruhámat foltozgatod? Rongyosan is jó az nékem, Varrj inkább egy zászlót, feleségem! Sejtek, sejtek én valamit, A jóisten tudja, hogy mit, De elég, hogy szól sejtésem, Varrd meg azt a zászlót, feleségem! Nem maradhat így sokáig, Mi hogyan lesz, majd elválik, Elválik a csatatéren, Varrd meg azt a zászlót, feleségem! Drága áru a szabadság, Nem ingyen, de pénzen adják, Drága pénzen, piros véren; Varrd meg azt a zászlót, feleségem! Ha ilyen szép kéz varrja meg, A győzelem belészeret, S mindig ott lesz közelében; Varrd meg azt a zászlót, feleségem!Dịch Em làm gì đó, em may gì đó? Anh biết rồi, em vá áo cho anh Áo anh chưa rách lắm đâu, anh còn mặc được Em yêu ơi, nên may cho anh một lá cờ Lòng anh rộn ràng linh cảm Cái gì đến? Có trời hay! Tiếng ai gọi anh đây May cho anh lá cờ đi, em hỡi! Thời gian thay đổi Chúng ta chờ gì ở tương lai? Chiến trường sẽ quyết định, em ơi Nhớ may cho anh một lá cờ Tự do giá đắt Muốn có tự do, phải tốn nhiều hơi sức Tự do của chúng ta đổi trao bằng máu đổ May cho anh lá cờ đi, hỡi em yêu Bàn tay đẹp em may cờ Chiến thắng sẽ mê say bàn tay đẹp Chiến thắng sẽ theo lá cờ ta đi khắp Em yêu, nhớ may cho anh một lá cờ
Gió buồn mùa thu nói với cây
Beszél a fákkal a bús őszi szél, Halkan beszélget, nem hallhatni meg; Vajon mit mond nekik? beszédire A fák merengve rázzák fejöket. Dél s est között van idő, nyujtózom A pamlagon végig kényelmesen… Keblemre hajtva fejecskéjét, alszik Kis feleségem mélyen, csendesen. Egyik kezemben édes szendergőm Szelídeden hullámzó kebele, Másik kezemben imakönyvem: a Szabadságháborúk története! Minden betűje üstököscsillagként Nyargal keresztül magas lelkemen… Keblemre hajtva fejecskéjét, alszik Kis feleségem mélyen, csendesen. Arany csal s ostor kerget tégedet A zsarnokért megvíni, szolganép, És a szabadság? egyet mosolyog, S mind, aki híve, a harctérre lép, S érette, mint a szép lyánytól virágot, Sebet, halált oly jókedvvel veszen… Keblemre hajtva fejecskéjét, alszik Kis feleségem mélyen, csendesen. Hány drága élet hullt már érted el, Oh szent szabadság! és mi haszna van? De lesz, ha nincs: tiéd a diadal Majd a csatáknak utósóiban, S halottaidért bosszut is fogsz állni, S a bosszuállás rettentő leszen!… Keblemre hajtva fejecskéjét, alszik Kis feleségem mélyen, csendesen. Vérpanoráma leng előttem el, A jövendő kor jelenései, Saját vérök tavába fúlnak bé A szabadságnak ellenségei!… Egy kis mennydörgés szívem dobogása, S villámok futnak által fejemen, S keblemre hajtva fejecskéjét, alszik Kis feleségem mélyen, csendesen.Dịch Gió buồn mùa thu nói với cây Tiếng nghe nhỏ quá có ai hay Thì thầm bí mật điều chi đó? Cây động trăm cành như mơ say Bóng đêm nhè nhẹ bắt đầu xuống Ngả lưng lên ghế lòng tôi vui Vợ tôi ngả đầu lên vai tôi Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng Một tay tôi riết vợ vào lòng Nàng vẫn say sưa trong giấc mộng Một tay tôi cầm quyển sách kinh Lịch sử các chiến tranh giải phóng Tôi ham đọc quyển sách cao nhã Máu hồng làm đập trái tim tôi Vợ tôi ngả đầu lên vai tôi đằm thắm Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng Bị vàng cám dỗ bị roi dần Bay lũ nô lệ đi đánh thuê Nhưng dưới nụ cười thiêng liêng của tự do Nghĩa quân vì tự do chiến đấu Cho tự do họ hiến máu và cuộc đời Như họ dâng hoa cho người yêu Vợ tôi ngả đầu lên vai tôi đằm thắm Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng Để phục vụ ngươi bao trái tim thanh cao đã ngừng đập Ôi tự do thần thánh! Kết quả gì cho bao hi sinh? Đến nay chưa gì cả. Nhưng ngươi sẽ thắng Khi chiến trận cuối cùng sẽ đến Ngươi sẽ trả thù cho những người đã chết quang vinh Và quyết liệt ngươi sẽ không tha thứ cho kẻ thù Vợ tôi ngả đầu lên vai tôi đằm thắm Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng Mắt tôi dán vào một bức tranh hoe máu Tôi chưa thấy rõ được tương lai Kẻ thù của tự do chết đuối Trong biển máu đen của chúng Mỗi cái đập trái tim tôi là một tiếng sấm Ánh chớp chói ngời xuyên qua hồn tôi Trong khi đó vợ tôi ngả đầu vào vai tôi đằm thắm Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng
Gửi các nhà thơ thế kỷ XIX
Ne fogjon senki könnyelműen A húrok pengetésihez! Nagy munkát vállal az magára, Ki most kezébe lantot vesz. Ha nem tudsz mást, mint eldalolni Saját fájdalmad s örömed: Nincs rád szüksége a világnak, S azért a szent fát félretedd. Pusztában bujdosunk, mint hajdan Népével Mózes bujdosott, S követte, melyet isten külde Vezérül, a lángoszlopot. Ujabb időkben isten ilyen Lángoszlopoknak rendelé A költőket, hogy ők vezessék A népet Kánaán felé. Előre hát mind, aki költő, A néppel tűzön-vízen át! Átok reá, ki elhajítja Kezéből a nép zászlaját. Átok reá, ki gyávaságból Vagy lomhaságból elmarad, Hogy, míg a nép küzd, fárad, izzad, Pihenjen ő árnyék alatt! Vannak hamis próféták, akik Azt hirdetik nagy gonoszan, Hogy már megállhatunk, mert itten Az ígéretnek földe van. Hazugság, szemtelen hazugság, Mit milliók cáfolnak meg, Kik nap hevében, éhen-szomjan, Kétségbeesve tengenek. Ha majd a bőség kosarából Mindenki egyaránt vehet, Ha majd a jognak asztalánál Mind egyaránt foglal helyet, Ha majd a szellem napvilága Ragyog minden ház ablakán: Akkor mondhatjuk, hogy megálljunk, Mert itt van már a Kánaán! És addig? addig nincs megnyugvás, Addig folyvást küszködni kell. – Talán az élet, munkáinkért, Nem fog fizetni semmivel, De a halál majd szemeinket Szelíd, lágy csókkal zárja be, S virágkötéllel, selyempárnán Bocsát le a föld mélyibe.Dịch Không còn ai nhẹ dạ Khơi tiếng hát dây đàn Ai ôm cây thất huyền Có nhiệm vụ trang nghiêm Nếu anh chỉ đến hát Niềm vui, nỗi khổ riêng Thì đời không chờ đợi Hãy vứt cây đàn thiêng Ta sống trong sa mạc Ngày xưa có Môi-dơ Dẫn đầu dân tiến bước Thẳng hàng đuốc nhìn theo Nay trời giao thi sĩ Như đuốc sáng rực hồng Nhiệm vụ đưa quần chúng Về đất Sa-na-an Cùng nhân dân, thi sĩ Hãy bước qua bão lửa Đáng nguyền rủa xấu xa Ai để rơi quốc kỳ Đáng rủa, ai đứng sau Nghỉ ngơi trong bóng tối Ai lười biếng nhát gan Khi dân đau, chiến đấu Chỉ là tiên tri giả Ai ma mãnh nói rằng Đã là nơi Đất Thánh Ta hãy tạm dừng chân Sự nói dối, nói lừa Ngược hẳn đời vô vọng Của triệu người cháy nắng Mà đói khát dày vò Khi đồng đều ta hưởng Lẵng quả chín tràn đầy Khi ngồi bàn công lý Ta bình đẳng như nhau Khi văn minh toả ánh Vào tận mỗi nhà mình Ta nói được: Dừng chân! Đây chính là Đất Thánh Ta chiến đấu quyết liệt Đây đến đó không ngừng Có thể ta cố gắng Nhưng đời không thưởng công Cái chết dịu dàng hôn Ngọt ngào thay vuốt mắt Cái chết đưa ta vào lòng trái đất Trong hoa tang, trong vải liệm lụa là
Gửi nghị viện
Ott álltok a teremnek küszöbén, Melyből a nemzet sorsa jön ki majd, Megálljatok, ne lépjetek be még, Hallgassátok ki intő szózatom… Egy ember szól, de milliók nevében! Az a hon, melyet őseink szereztek Verítékökkel s szívök vérivel, Az a hon többé nincs meg, csak neve Bolyong közöttünk, mint a temetőbül Éjféli órán visszajött kisértet… Az a hon többé nincs meg, falait Elmorzsolák a mult kor férgei, S az uj vihar szétfújta födelét, S lakói most az ég alatt tanyáznak, Mint a vadállat és mint a madár. Mit őseink egy ezredév előtt Tevének, azt kell tenni most tinektek: Bármily erővel, bármily áldozattal, Bár mind egy szálig elvesztek belé, Hazát kell nektek is teremteni! Egy új hazát, mely szebb a réginél És tartósabb is, kell alkotnotok, Egy új hazát, ahol ne légyenek Kiváltságok kevély nagy tornyai, Sötét barlangok, denevértanyák, Egy új hazát, hol minden szögletig Eljusson a nap s tiszta levegő, Hogy minden ember lásson s ép legyen. Nem mondom én: a régi épületnek Dobjátok félre mindenik kövét, De nézzetek meg minden darabot, mit Alapnak vesztek, s amely porhatag már, Vessétek azt el kérlelhetlenül, Bármily szent emlék van csatolva hozzá, Mert jaj a háznak, mely alapba’ gyönge, Mert fáradástok akkor hasztalan lesz, Egy perc jöhet, s az épület ledől, S rosz gazda, aki mindig ujra épit, S ma vagy holnap, de végre tönkre jut. Számot vetett-e mindenik magával, Minő dologra szánta el magát? Nagy a dicsőség, melyet mindegyik Szerezhet itten, de tudjátok-e, Csak nagy munkáért jár ez a dicsőség! Akit nem égő honfiérzelem És tiszta szándék vezetett ide, Kit a hiúság, vagy silány önérdek Csábít e helyre, az szentségtelen Lábbal ne lépjen e szentelt küszöbre, Mert hogyha egyszer átlép és kijő majd, Átok s gyalázat lesz kisérete, Mellyel haza s később a sírba megy. – Ti, kik szivébül bálványistenek Ki nem szoríták az igaz nagy istent, Kiknek szivében a honszeretet Mint szentegyházi oltárlámpa ég, Eredjetek be és munkáljatok, Legyen munkátok oly nagy, oly szerencsés, Hogy bámultában, majd ha látni fogják, Megálljon rajta a világ szeme, A bennlakókat vallja boldogoknak És istenítse, akik épitették!Dịch Ngài, ngài sẽ bước vào ngưỡng cửa phòng Trong ấy quyết định tương lai Tổ quốc Trước khi bước vào ngài chờ một phút Lắng nghe tôi dò dặn những lời đây Chỉ một người đến nói với ngài thôi Nhưng chính triệu triệu con người lên tiếng Tổ quốc mà cha ông ta xây dựng Bằng giá cao của máu đổ, mồ hôi Tổ quốc ta không còn có nữa rồi Tổ quốc ta chỉ còn trong tên gọi Giữa chúng ta tên đi lang thang mãi Như con ma, như bóng tự nghĩa trang Tổ quốc không còn. Mối bọ thời gian Đã đục hết tường, và tường đã đỗ Thời đại ngày nay có cơn bão tố Đã lật mất nóc che chở quê hương Người ở trong nhà không chỗ tựa nương Họ chỉ lấy trời cao làm chăn đắp Cũng như thú rừng hoang và chim lạc Những gì tổ tiên làm tự nghìn xưa Làm lại ngày nay chính việc các ngài Phải công phu, phải dài năm cố gắng Ngay phải đổi cuộc đời giành cái thắng Nhiệm vụ các ngài xây dựng tương lai Tổ quốc mới phải đẹp hơn cái cũ Nó bất diệt, nó thử thách bao thế kỷ Tổ quốc mới không cung điện kiêu căng Không lều tối om những kẻ nghèo nàn Một Tổ quốc mới khắp nơi được tưới Ánh mặt trời và khí trời làm sống lại Cho ai đều thấy thế giới đẹp này Cho ai cũng đều khoẻ mạnh đều tươi Tôi không bảo ngài một bên phải vứt Tất cả đá của ngôi nhà thuở trước Nhưng phải xem kỹ mọi góc nền nhà Nếu chỗ đào rữa nát với thời gian Thì nhất định vứt đi không thương tiếc Dù đó có nhiều kỷ niệm tha thiết Phải cẩn thận, nhà ọp ẹp dưới nền Nếu không chú ý thì mất bao công Chỉ một phút cũng đủ làm đổ tất Xây nhà lại mãi là điều xấu thật Vì chóng hay chầy cũng đến hoang tàn Các ngài nắm được nhiệm vụ mình không? Công sức ở nơi này quang vinh lắm Nhưng phải biết quang vinh này chỉ nắm Khi nhiệm vụ cao cả đã hoàn thành Những ai đó khi đi đến nơi đây Mà không chí bền giúp cho Tổ quốc Không yêu nước, qua cửa thiêng chớ bước Đừng nên bước vào đây, những kẻ đi Với kiêu căng, với tính toán chi li Vì khi ra, xấu xa và nguyền rủa Sẽ theo chân cho đến ngày xuống mộ Nhưng nếu với Chúa, ngài có lòng tin Nếu lòng yêu nước, ngài giữ trong tim Như lửa thiêng, xin mời vào, bước thẳng Và xin mời ngài làm nhiệm vụ lớn Mong các ngài được thắng lợi huy hoàng Mong toàn cầu, việc cao cả chứng minh Ghen tị với người ở trong nhà ấy Và hoan nghênh các ngài đã xây nhà!
Gửi sự tự do
Oh szabadság, hadd nézzünk szemedbe! Oly sokáig vártunk rád epedve, Annyi éjen által, mint kisértet, Bolygott lelkünk a világban érted. Kerestünk mi égen-földön téged Egyetlenegy igaz istenséget, Te vagy örök, a többi mind bálvány, Mely leroskad, egy ideig állván. S mégis, mégis számkivetve voltál, Mint a gyilkos Kain bujdokoltál, Szent nevedet bitora szögezték, Érkezésedet hóhérok lesték. Megszünt végre hosszu bujdosásod, Sírba esett, ki neked sírt ásott, Bevezettünk, s uralkodás végett Elfoglaltad a királyi széket. Te vagy a mi törvényes királyunk, Trónusodnál ünnepelve állunk, Körülötted miljom s miljom fáklya, Meggyúlt szíveink lobogó lángja. Oh tekints ránk, fönséges szabadság! Vess reánk egy éltető pillantást, Hogy erőnk, mely fogy az örömláztól, Szaporodjék szemed sugarától. De, szabadság, mért halvány az orcád? Szenvedésid emléke szállt hozzád? Vagy nem tettünk még eleget érted? Koronádat a jövőtől félted? Ne félj semmit, megvédünk… csak egy szót, Csak emeld föl, csak mozdítsd meg zászlód, S lesz sereged ezer és ezernyi, Kész meghalni vagy diadalt nyerni! S ha elesnénk egy szálig mindnyájan, Feljövünk a sírbul éjféltájban, S győztes ellenségednek megint kell Küzdeni… kisértő lelkeinkkel!Dịch Tự do, hãy nhìn mắt chúng tôi Ta chờ anh từ lâu lắm rồi Tâm hồn ta, bóng trong đêm tối Để tìm anh, đi đã khắp nơi Ta tìm ngươi dưới đất trên trời Anh, Chúa đời đời, ta, độc nhất Chỉ anh, vĩnh viễn. Các Chúa kia Khi họ hết thời, sẽ đổ nát Nhưng đâu người ta cũng đuổi anh Anh đi lang thang như Cain Tên anh thiêng liêng bị bêu xấu Đao phủ quân đâu cũng đứng rình Nhưng cuộc đày anh vừa mới hết Kẻ thù rơi trong huyệt chúng đào Ta đón anh về lòng hớn hở Ta đưa anh lên ngự ngôi cao Anh, vua độc nhất, ta biết ơn Ta đứng quanh ngôi, buổi hội mừng Vòng bên anh có bao ngọn đuốc Lòng ta rực cháy đón chào anh Tự do thiêng liêng, hãy nhìn chúng tôi Bằng con mắt ban cho sự sống Để làm trái tim lại thắm tươi Trái tim mà vui say đã làm cháy bỏng Nhưng, Tự do, mặt sao quá xanh? Nhớ niềm đau cũ còn phiền anh? Hay ta phục vụ anh chưa đủ? Anh ngại sẽ mất mũ triều thiên? Anh đừng run, ta bảo vệ anh Anh chỉ giơ cao cờ đấu tranh Quanh anh sẽ có triệu người lính Sẵn sàng thắng hay chết vì anh Và nếu chúng tôi đều bị giết Đêm đêm sẽ ra khỏi nấm mồ Và quân thù phải tiếp tục Xung trận với hồn ta
Ngày 15 tháng ba năm 1848
Magyar történet múzsája, Vésőd soká nyúgodott. Vedd föl azt s örök tábládra Vésd föl ezt a nagy napot! Nagyapáink és apáink, Míg egy század elhaladt, Nem tevének annyit, mint mink Huszonnégy óra alatt. Csattogjatok, csattogjatok, Gondolatink szárnyai, Nem vagytok már többé rabok, Szét szabad már szállani. Szálljatok szét a hazában, Melyet eddig láncotok Égető karikájában Kínosan sirattatok. Szabad sajtó!… már ezentul Nem féltelek, nemzetem, Szívedben a vér megindul, S éled a félholt tetem. Ott áll majd a krónikákban Neved, pesti ifjuság, A hon a halálórában Benned lelte orvosát. Míg az országgyülés ott fenn, Mint szokása régóta, Csak beszélt nagy sikeretlen: Itt megkondult az óra! Tettre, ifjak, tettre végre, Verjük le a lakatot, Mit sajtónkra, e szentségre, Istentelen kéz rakott. És ha jő a zsoldos ellen, Majd bevárjuk, mit teszen; Inkább szurony a szivekben, Mint bilincs a kezeken! Föl a szabadság nevében, Pestnek elszánt ifjai!…- S lelkesülés szent dühében Rohantunk hódítani. És ki állott volna ellen? Ezren és ezren valánk, S minden arcon, minden szemben Rettenetes volt a láng. Egy kiáltás, egy mennydörgés Volt az ezerek hangja, Odatört a sajtóhoz és Zárját lepattantotta. Nem elég… most föl Budára, Ott egy író fogva van, Mert nemzetének javára Célozott munkáiban. S fölmenénk az ős Budába, Fölrepültünk, mint sasok, Terhünktől a vén hegy lába Majdnem összeroskadott. A rab írót oly örömmel S diadallal hoztuk el, Aminőt ez az öreg hely Mátyás alatt ünnepelt! – Magyar történet múzsája, Vésd ezeket kövedre, Az utóvilág tudtára Ottan álljon örökre. S te, szivem, ha hozzád férne, Hogy kevély légy, lehetnél! E hős ifjuság vezére Voltam e nagy tetteknél. Egy ilyen nap vezérsége, S díjazva van az élet… Napoleon dicsősége, Teveled sem cserélek!DịchEm Nàng Thơ lịch sử nước Hung Mà lời văn ngủ đã lâu năm Hãy chạm trổ ngày quang vinh đó Trên tấm đá mãi mãi còn luôn Cả ông ta và cả bố ta Trong thời gian thế kỷ nặng nề Đều không làm cái ta làm được Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ Cánh tung bay tâm trí của ta Hãy vươn đi xa, vươn đi xa Ngươi không bị tù trong ngục thất Hãy toả mênh mông ra khắp nơi Hãy đi khắp nơi trên đất nước Mà ngươi đã khóc tự bao năm Lúc ngươi còn bị đau ràng buộc Trong kẹp lửa đỏ của xích xiềng Báo chí đã tự do: từ đây Nước ta ơi, không sợ cho ngươi nữa Trong lòng ngươi chảy tràn máu thắm Tấm thân chết, sống lại xinh tươi Đúng, tên của thanh niên thành Pest Sẽ được ghi vào trang sử sách Quê hương ta đến phút cuối cùng Thấy nơi các anh người cứu vớt Trong khi toàn Nghị viện, trên kia Trung thành với phong cách ngày xưa Tiếp tục nói dài không bổ ích Đây, giờ đã đánh cho chúng ta Hành động, vững lòng, ôi tuổi trẻ Chúng ta bẻ cho xong hết khoá Mà bàn tay ác đã đặt lên Trên vốn thiêng liêng, trên báo chí Nếu kẻ thù đưa quân nó đến Ta chờ xem quân nó làm gì? Cho lưỡi lê thù đâm thủng ngực Còn hơn mang xiềng xích trong tay Vì tự do, chúng ta tiến bước Thanh niên thành Pest, chúc anh hùng Và chúng ta tấn công mãnh liệt Trong niềm phấn khởi và hờn căm Này những ai dám đứng đương đầu? Tất cả chúng ta là triệu triệu Trong nét mặt và trong mắt sâu Một ánh lửa oai hùng rọi chiếu Tiếng chúng ta thét lên hàng triệu Như một cơn sấm, như đồng thanh Chúng ta xô vào trong báo chí Ổ khoá đà gãy vụn văng lên Bây giờ đều ở cả Bu-đa Một nhà văn đau đớn, đằng kia Sâu trong tù ngục, vì đã nắm Cây bút thiêng phục vụ nước nhà Ta đã tiến công thành Bu-đa Cũng nhanh chóng như chim ưng vậy Cả phía sườn cao ngôi núi cổ Cũng muốn sụp đổ dưới chân ta Ta bế lên trong cuộc khải hoàn Nhà văn nhốt ngục! Ôi vui thay Ngôi núi cổ chưa hề thấy vậy Từ những yến hội của Ma-chi-a Hỡi Nàng Thơ lịch sử nước Hung Ghi các việc lớn trên, lên đá Làm bài học lâu đời, vô giá Cho mắt sau này của cháu, con Cho dù em đây có hãnh diện Thì em ơi, cũng được chứ sao Bởi vì anh, anh đã đứng đầu Thanh niên đô thành ta anh dũng Làm người dẫn đường như ngày nay Đó mới thật đời anh được thưởng So nhiều quang vinh trên thế giới Thích nhất quang vinh của ta đây
Người dân Hung đã lại như ngày trước
Ismét magyar lett a magyar, Mert ekkorig nem volt a, Hogy is lett volna? szolga volt, S nem magyar, aki szolga! Ismét magyar lett a magyar, Bilincsét összetörte, Mint ősszel a száraz levél, Csörögve hull a földre! Ismét magyar lett a magyar, Kardot ragad kezébe, Kardján a napsugár ragyog S a bátorság szemébe’! Ismét magyar lett a magyar, Lángol, piroslik arca, Kitűzött zászló mindenik, Amely jelt ád a harcra! Ismét magyar lett a magyar, Egy sziv miljók keblében, És dobbanása rémület Az ellenség fülében! Ismét magyar lett a magyar, A síkra állt vitézül, És a világ, a nagyvilág Csodákat látni készül! Ismét magyar lett a magyar, S világvégéig az lesz, Vagy iszonyúan és dicsőn Mind, mind egy szálig elvesz!Dịch Người dân Hung đã lại như ngày trước Vì anh không còn như ngày trước đã từ lâu Không còn như ngày trước, khi đã vào cảnh nô lệ thương đau Người nô lệ không xứng danh người dân Hung nữa Người dân Hung đã lại như ngày trước Anh đã rũ hết xích xiềng Như trong mùa thu lá úa vàng Tan tác xích xiềng rơi xuống đất Người dân Hung đã lại như ngày trước Anh nắm chặt thanh kiếm cổ xưa Thanh kiếm cổ xưa rạng ánh mặt trời Và cặp mắt anh chói chang lòng can đảm Người dân Hung đã lại như ngày trước Khuôn mặt anh ngọn lửa sáng bừng Mỗi khuôn mặt bừng lửa là một lá cờ tung Kêu gọi toàn dân chiến đấu! Người dân Hung đã lại như ngày trước Một trái tim anh hùng trong mấy triệu người Hung Mỗi tiếng đập trái tim anh hùng Đều gây khủng khiếp trong hàng ngũ quân thù trước mặt Người dân Hung đã lại như ngày trước Can đảm như xưa anh bước vào tranh đấu Các nhân dân trên khắp hoàn cầu Chờ đợi những kỳ quan! Người dân Hung đã lại như ngày trước Dân Hung sẽ còn như trước cho đến ngày tận thế Hoặc sẽ hy sinh cho đến người chiến sĩ cuối cùng Chết cái chết đầy vinh dự, tuy thương đau!
Thời kinh khủng Szörnyű idő
Szörnyű idő, szörnyű idő! S a szörnyüség mindegyre nő. Talán az ég Megesküvék, Hogy a magyart kiirtja. Minden tagunkból vérezünk, Hogy is ne? villog ellenünk A fél világnak kardja. És ott elől a háború Csak a kisebb baj; szomorúbb, Mi hátul áll, A döghalál. Be kijutott a részed Isten csapásiból, o hon, Folyvást arat határidon Két kézzel az enyészet. Egy szálig elveszünk-e mi? Vagy fog maradni valaki, Leírni e Vad fekete Időket a világnak? S ha lesz ember, ki megmarad, El tudja e gyászdolgokat Beszélni, mint valának? S ha elbeszéli úgy, amint Megértük ezeket mi mind: Akad-e majd, Ki ennyi bajt Higgyen, hogy ez történet? És e beszédet nem veszi Egy őrült, rémülésteli, Zavart ész meséjének?Dịch Thời kinh khủng! Thời kinh khủng! Gớm ghê tăng mãi không ngừng Có lẽ trời kia Định giết cả người Hung Cả thân hình chúng tôi chảy máu Vì sao? một nửa nhân loại Cầm gươm súng giết chúng tôi Trước mặt chúng tôi là chiến tranh Tệ hơn nữa, sau lưng lại đến Bao nhiêu thứ bệnh Tổ quốc ơi! Người nhận phần Nguyền rủa của trời Cái chết hai tay đang hái Không hề ngừng Trên biên giới nhà ngươi Chúng ta chết hết Không còn người nào Để ghi trong sử Của những ngày đầy tội ác đêm sâu? Anh ta còn biết tìm ra manh mối Của giai đoạn gớm ghê này không? Nghe chuyện thật Những ngày ta sống Có ai tin Bao nhiêu đau khổ đến với ta như thế? Có ai nghe Như những giấc chiêm bao vô lí Từ đầu óc người điên?
Thư gửi nhà thơ bạn Giăng A-ra-ny
Meghaltál-e? vagy a kezedet görcs bántja, imádott Jankóm, vagy feledéd végkép, hogy létezem én is? Vagy mi az ördög lelt?… híred sem hallja az ember. Hogyha magába fogadt az öröklét bölcseje, a sír: Akkor béke veled, legyenek szép álmaid ott lenn, Feddo kérdésem nem fogja zavarni nyugalmad, Hogy mi okért hallgatsz? mért késel szólni levélben? Hogyha pedig görcs bánt, menj a patikába, s iparkodj Meggyógyulni, fiam, s aztán írj rögtön, azonnal. S ha feledél engem? ha barátod volna feledve? Dejsz ugy, öcsém, vessz meg, kívánom tiszta szivembül. Te mikoron nevedet keblem mélyébe leírtad, Mit tettél, tudod azt? gránitsziklába acéllal Vágtál életen át múlás nélkuli betuket; Hát én? én nevemet karcoltam volna homokba, Melyet, névvel együtt, egy hó szelloje is elfúj? Megköszönöm, ha netán így van… no de elhiszem inkább, Hogy rosz verseim is vannak, mint hogy te feledtél. Lomha vagy, itt a bibéd; restelsz, mit jó magam, írni. Kérlek, hagyd nekem a restséget, légy te serényebb, Lásd, nekem úgy illik, (s oly jólesik!) úgye lemondasz Róla, ha én kérlek! – Hah, máris látlak ugorni, Mint ragadod nyakon a tollat, mint vágod az orrát A tintába, miként huzod a sok hosszu barázdát A papiron, ringy-rongy eszméket vetve beléjök… Mert ne is írj inkább, hogysem bölcs gondolatokkal Terheld meg leveled s gyomrom, mert semmi bolondabb Nincsen, mint az okos levelek, s én iszonyuképen Irtózom tolök; tán mert én nem tudok olyat Kompónálni, azért. Ez meglehet. Ámde hogy úgy van, Esküszöm erre neked túróstésztára, dohányra És mindenfélére, mi csak szent s kedves elottem. – Drága komámasszony, kegyedet kérem meg alássan, Üsse agyon férjét és szidja meg istenesen, ha Még ezután sem fog nekem írni az illyen-amollyan. Írjon mindenrol hosszan, de kivált, ha kegyedrol Ír röviden, haragunni fogok majd hosszu haraggal. El ne feledje a barna Lacit s a szoke Julist, e Kedves gyermekeket. Hát a kert hogy van, amelynek Rózsáin szemeim sokszor függének, amíg a Messzeröpult lélek hívemhez vitte szerelmét? És a csonka torony, mely a harcoknak utána Most szomorún hallgat gyér fu-koszorúzta fejével, S várja jövendojét, mely lábát ráteszi, s akkor Összeomol, mint a koldús, ha kikapja kezébol A mankót a halál… áll még a gólya fölötte, Méla merengéssel nézvén a messze vidékbe? Mindenrol akarok, mi nekem kedves vala, tudni. Jártam azóta dicso szép tájakon, ámde tiétek Mindig eszemben volt, bár nincs mit rajta csodálni; A veletek töltött kor tette szivembe örökké. S jártam azóta magas fényes paloták körül, ahol Minden, minden nagy; gazdáik lelke kicsiny csak… Akkor eszembe jutott alacsony hajlékotok, ebben Mind kicsinyecske, de a gazdának lelke nagy és szép! – Ejnye, mi a fene lelt engem, hogy szembe dicsérek? Most veszem észre, hohó! mind, amit mondtam, hazugság, Csúnya hazugság volt. Le akartam csak kenyerezni A nótáros urat, hogy… hogy… majd beszerezzen Bakternek vagy kondásnak falujába, ha e szép Hívatalok valamelyike meg fog ürulni idovel. Hja, nekem is hozzá kell látnom végre, barátom. Házasodom, tudod azt, s tudod azt is, hogy jövedelmet Dús uradalmam nem hullat zsebeimbe, mióta Századik édesapám eladá vagy meg se’ szerezte. S így az eléléshez nincsen mód, nincs! hivatal kell. Meghajtom fejemet, szépen mosolyogni tanúlok, Nyájas szófogadás, kígyó-csúszásu hizelgés Lesz kenyerem (s zsíros kenyerem)… hah, lesz a kutyának, Nem pedig énnékem! pusztán a gondolat is már Lángfelhoket idéz véres szemeimnek elébe, És szívem tombol, mint a harmadfü csikó, ha A pányvás kötelet legeloször dobja nyakába A pásztor, hogy a ménesbol kocsirúdho’ vezesse. Nem a tehertol fél, amelyet húznia kell majd, Nem! hanem a hámtól, mely korlátozza futását. És amit így elveszt, azt nem pótolja sem abrak, Sem pedig a ragyogó szerszám. Mit néki az étel S a hiu fény! megelégszik o a pusztai gyeppel, Bármi sovány, s a záporesok szabad égnek alatta Verhetik oldalait s a bozót hadd tépje sörényét, Csak szabadon járjon, csak kergethesse tüzében A sivatag viharát s a villám sárga kigyóit – – Isten hozzátok! lelkem múlatni szeretne Még veletek, kedves hiveim, de az elragadó szél Képzeletem százrétü vitorlájába beléfújt, Szétszakad a horgony, fut gályám, elmarad a part, S ringat habkarján a látkör nélküli tenger, És mig az orkán zúg, s a felhok dörgenek, én a Lant idegébe kapok, s vad tuzzel zengi el ajkam Harsány himnuszodat, százszorszent égi szabadság!Dịch Mày chết rồi ư? Mày cóng tay sao Giăng thân yêu, hay mày đã quên tao? Gì đã xảy ra? Mày không tin tức Nếu mày yên nghỉ nghìn năm – ngôi mộ Thì nghỉ cho yên. Chúc mày có mộng đẹp bên kia Tao thắc mắc vì mày lặng không thư Chắc nó không phá của mày giấc ngủ Nếu mày cóng tay, nhớ đi mua thuốc Uống cho lành. Rồi nhớ viết thư nhanh Nếu mày quên tao, quên thằng bạn thân Thì trời đày mày, rủa mày đấy nhé! Khi trong lòng tao tên mày viết rõ Mày đã khắc trên tảng đá hoa cương Bằng mũi thép dấu hiệu vẫn còn luôn Còn tao? Đã ghi tên tao trên cát Gió biển thổi đi, tên đà mờ nhạt Nếu thật vậy, thì cám ơn, cám ơn Tao thích viết câu thơ dở còn hơn Là thấy mày đã quên tao như thế Bệnh mày, là lười! Viết thư thì ngại Tao cũng vậy. Đừng ngại nữa, van mày Với tao, với mày, thu xếp dễ thôi Nhưng ôi, nếu mày từ chối Tao thấy rồi. Trên bút lông mày nhảy Mày lấy mực chấm đầu ngòi bút lông Trên trang giấy trắng mày viết trăm dòng Để gieo lên đó những đầu ý nghĩ Nhưng tốt hơn hết mày đừng viết nữa Nếu thư mày nặng tư tưởng sâu xa Không gì điên hơn một thư lý sự Tao ghê nó và nó làm tao sợ Có lẽ đọc nó tao không hiểu tao Vì thế đó. Nhưng mày nói tao nghe Về một bánh mỳ bôi pho-mát trắng Về thuốc lá, về gì tao yêu mến Bây giờ thưa chị, tôi nói chuyện thân Với chị. Chị hãy mắng anh Giăng Nếu anh lần khân không thư cho bạn Anh phải viết dài, nói cho đủ chuyện Nhất về chị, nếu anh ngắn ngủi đưa tin Thì tôi sẽ sâu sắc giận anh Mong anh không quên La-xi tóc hung, tóc vàng Giu-li-ét Các cháu yêu. Ra sao rồi, vườn tược? Các hoa hồng tôi hay ngắm ngày xưa Khi tôi nhớ một người yêu ở xa? Và cái tháp điêu tàn từ thuở trước Mái nó chắc vẫn xum xuê cỏ dại Tháp chờ chăng, tương lai đến đạp nó dưới chân Nó đứng hệt như một kẻ ăn xin Chờ cái chết đến cất giùm nạng chống Xa kia, con sếu vẫn trên tháp đứng Mắt mơ mộng vẫn nhìn khắp xung quanh? Tôi chờ tin về những cái mến thân Từ ấy tôi đi những nơi kỳ diệu Nhưng yêu quê bạn, đơn sơ kín đáo Ở gần anh chị nó sẽ đẹp thêm Nhiều cung điện nguy nga tôi đã thăm Vĩ đại cả, chỉ trừ lòng bọn chủ Mỗi lần tôi lại nhớ nhà anh chị Bé cả, trừ tâm hồn chủ thanh cao Ối chào! Tôi lại nịnh hót rồi sao Kể thật ra, đều là trò nói dối Để bắt buộc viên công chứng một tí Để bắt buộc hắn tìm cho tôi việc tốt trong làng Gì cũng được, người chăn lợn hay lính tuần phiên Miễn hai việc đều làm tôi được rảnh Giăng, tao phải nghĩ đến đó nghiêm chỉnh Mày biết, tao vợ rồi, mày cũng hay Rằng đất tao hoa lợi chẳng có gì Ngày ông tổ thứ ba mươi đã bán Hay đúng hơn, là đã quên tậu ruộng Giờ làm sao sống? Phải có việc làm Cúi đầu vậy, học nết ở nết ăn Vâng lời, nịnh nọt, thâm khôn rắn độc Tao sẽ có bánh, bánh mì bơ… Được Đó là cho chó chứ đâu cho tao Nghĩ vậy, mắt tao bốc máu lửa và mây mù Lòng điên lên như con ngựa tơ hai tuổi Khi người chăn muốn vứt xung quanh cổ Lần đầu tiên, một sợi dây thừng tròng Kéo nó khỏi đàn, đẩy nó vào gọng xe Không phải nó sợ cái gì đè nặng Không! Nhưng bộ đồ ngựa ngăn bước nó Và cái nó mất, không phải cỏ khô Hay bộ đồ ngựa chói lọi ấy đâu! Nghĩa lý gì cái ăn và cái bóng nhoáng? Nó sẽ bằng lòng cỏ ở Pút-ta Dù cằn cỗi, và mưa rào sườn núi Và bụi gai có thể rứt lông bờm Miễn nó được tự do chạy tung tăng Nó chạy còn nhanh hơn cơn gió bão Nó chạy còn nhanh hơn chớp vàng loé Mong anh chị được trời phù hộ. Tôi ưa Còn được ở gần anh chị. Ngọn gió đưa Thổi buồm tôi trong lang thang mơ mộng Bãi bờ đã xa. Mênh mông mặt biển Trên cánh tay bọt nước trắng đẩy tôi Đã cất neo rồi. Trên khơi rộng buồm trôi Khi bão gầm vang, khi trời sấm sét Tôi nảy một dây đàn… Ôi tự do thân thiết Tôi cất tiếng hát hăm hở chào ngươi!
Tôi tin chắc lần này chúng tôi sẽ thắng
Bizony mondom, hogy győz most a magyar, Habár ég s föld ellenkezőt akar! Azért nem győzött eddig is e hon, Mert sohasem volt egy akaraton; Most egy a lélek, egy a szív, a kar… Mikor győznél, ha most sem, oh magyar? Egy ember a haza, s ez halni kész, S ezért, oh népem, ép ezért megélsz, S dicső lesz élted, boldog és szabad, Amilyen senkié a nap alatt! S én bátran állom a csaták tüzét, Tudom, hogy a golyó nekem nem vét, Tudom, hogy a sors őriz engemet, Hogy engemet megölni nem lehet, Mert én leszek, nekem kell lenni, ki Ha elleninket mind a föld fedi, Megéneklem majd diadalmadat, Szabadság, és a szent halottakat, Akiknek vére volt kereszvized, S halálhörgése bölcsőéneked; Meg kell, hogy érjem azt a szép napot, Midőn áldásodat reánk adod, S mi annyi átokteljes év után Sirunk, mosolygunk, az öröm mián, Midőn, mit eltört láncunk ád, a nesz Egy szabad nemzet imádsága lesz! Meg kell, hogy érjem azt a nagy napot, Amelyért lantom s kardom fáradott!Bản DịchTôi tin chắc lần này chúng tôi sẽ thắng Trong trận chiến đấu với lực lượng liên kết của đất của trời Cho đến nay chính nghĩa của nước nhà chưa thắng Vì đàn con luôn luôn còn bị rẽ chia Nhưng, nay Tổ quốc đã đoàn kết mọi tấm lòng, mọi cánh tay Biết bao giờ anh sẽ thắng, nếu bây giờ anh chưa chịu thắng? Cả dân tộc ta đứng dậy như một con người Nên ngươi sẽ sống, Tổ quốc ta ơi! Người Hung sẽ tự do, sẽ hạnh phúc Như chưa hề có dân tộc nào trên trái đất! Tôi nhảy vào các cuộc chiến tranh Tôi thấy đạn bay không bắn được thân mình Vận mệnh chở che tôi, tôi biết Lần này tôi tránh được cái chết Vì tôi phải sống để chờ ngày Quân thù dưới đất bị chôn vùi Để hát mừng ngươi, ôi Tự do yêu quý Để hát mừng quang vinh của các anh hùng Đã hy sinh – máu họ đổ sẽ là nước thánh Và tiếng hát ru ngươi là hơi thở cuối cùng! Tôi phải sống cho đến ngày Tự do sẽ ban phúc cho ta Khi sau bao nỗi đau không tả được Niềm vui tự do sẽ trút xuống niềm vui Khi bài ca nước nhà giải phóng Sẽ chan hoà với tiếng đứt xích xiềng! Tôi phải sống để nhìn thấy sự thành công của chính nghĩa Của chính nghĩa mà tôi đã hiến dâng chiếc đàn thơ và thanh kiếm!
Tuổi trẻ tháng ba (trích)
Szolgaságunk idejében Minden ember csak beszélt, Mi valánk a legelsők, kik Tenni mertünk a honért! Mi emeltük föl először A cselekvés zászlaját, Mi riasztók föl zajunkkal Nagy álmából a hazát! A földet, mely koporsó volt S benn egy nemzet a halott, Megillettük, és tizennégy Milljom szív földobogott. Egy szóvá s egy érzelemmé Olvadt össze a haza, Az érzelem “lelkesűlés”, A szó “szabadság” vala. Oh ez ritkaszép látvány volt, S majd ha vénül a világ, Elmondják az unokáknak Ezt a kort a nagyapák. És mi becsben, hírben álltunk, Míg tartott a küzdelem, De becsünknek, de hirünknek Vége lett nagy hirtelen. Kik nem voltak a csatán, a Diadalhoz jöttenek, S elszedék a koszorúkat, Mert a szóhoz értenek. E sereg, mely, míg a harc folyt, El volt bujva vagy aludt, Igy zugott a diadalnál: Mi viseltünk háborut!Dịch Ngày chúng ta còn nô lệ Người ta chỉ nghe những câu nói viển vông Chúng ta là những kẻ đầu tiên Dám làm một cái gì khác cho Tổ quốc Chúng ta là những kẻ đầu tiên Phất cao cờ hành động Những tiếng chúng ta kêu báo động Đã thức tỉnh quê hương Tiếng thét lửa chúng ta lung lay trái đất Chiếc quan tài lớn dành cho quê hương ta sắp chết Và mười bốn triệu trái tim Bỗng trở về cuộc sống Chỉ một tiếng kêu, một tình cảm thống nhất Đúc thành một khối cả dân tộc chúng ta Lửa của lòng yêu đất nước Tiếng gọi nồng thắm của tự do Đó là một cảnh không thể nào quên được Những thời đại sắp đến đây Khi người Hung-ga-ri còn ở trên đời Các ông cụ già sẽ kể chuyện cho con cháu Trong những ngày ác liệt chiến đấu Chúng ta đều có và danh dự và kính yêu Nhưng một ngày kia Danh dự và kính yêu có thể mất Những ai đứng xa cuộc chiến đấu ác liệt Ngày thắng trận sẽ lạ về Họ sẽ đội mũ triều thiên của chúng ta Vì họ thông đồng với kẻ có những lời nói dối Trong trận chiến đấu cuối cùng Những ai nằm ngủ những ai lẩn tránh Sẽ lớn tiếng Đòi phần thưởng của chiến thắngNguyễn Xuân Sanh là một nhà thơ xuất sắc của đất nước ta. Qua bài viết này chúng ta thêm phần cảm phục và ngưỡng mộ sự đa tài của ông. Những tác phẩm của ông luôn được bạn đọc chào đón và săn lùng. Cảm ơn quý độc giả đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!Xem Thêm :