3
A nap akkor már a földet érintette, Mikor Jancsi a nyájt félig összeszedte; Nem tudja, hol lehet annak másik fele: Tolvaj-e vagy farkas, ami elment vele? Akárhová lett az, csakhogy már odavan; Búsulás, keresés, minden haszontalan. Most hát mihez fogjon? nekiszánva magát, Hazafelé hajtja a megmaradt falkát. “Majd lesz neked Jancsi… no hiszen lesz neked!” Szomorún kullogva gondolta ezeket, “Gazduramnak ugyis rossz a csillagzatja, Hát még… de legyen meg isten akaratja.” Ezt gondolta, többet nem is gondolhatott; Mert ekkor a nyájjal elérte a kaput. Kapu előtt állt az indulatos gazda, Szokás szerint a nyájt olvasni akarta. “Sose olvassa biz azt kelmed, gazduram! Mi tagadás benne? igen nagy híja van; Szánom, bánom, de már nem tehetek róla,” Kukoricza Jancsi e szavakat szólta. Gazdája meg ezt a feleletet adta, S megkapta bajszát, és egyet pödrött rajta: “Ne bolondozz Jancsi, a tréfát nem értem; Amíg jól van dolgod, föl ne gerjeszd mérgem.” Kisült, hogy korántsem tréfaság a beszéd, Jancsi gazdájának majd elvette eszét; Jancsi gazdája bőg, mint aki megbőszült: “Vasvillát, vasvillát!… hadd szúrjam keresztül! Jaj, a zsivány! jaj, az akasztani való! Hogy ássa ki mind a két szemét a holló!… Ezért tartottalak? ezért etettelek? Sohase kerüld ki a hóhérkötelet. Elpusztulj előlem, többé ne lássalak!” Jancsi gazdájából így dőltek a szavak; Fölkapott hirtelen egy petrencés rudat, A petrencés rúddal Jancsi után szaladt. Kukoricza Jancsi elfutott előle, De koránsem azért, mintha talán félne, Markos gyerek volt ő, husz legényen kitett, Noha nem érte meg még husszor a telet. Csak azért futott, mert világosan látta, Hogy méltán haragszik oly nagyon gazdája; S ha ütlegre kerül a dolog, azt verje, Ki félig apja volt, ki őt fölnevelte? Futott, míg a szuszból gazdája kifogyott; Azután ballagott, megállt, meg ballagott Jobbra is, balra is; s mindevvel mit akar? Nem tudta, mert nagy volt fejében a zavar.Dịch Giăng chỉ tìm được một nửa đàn cừu lạc Mặt trời đã chếch sát xuống chân mây Những con khác ở đâu? Nào ai hay Một tên trộm đã bắt cừu, hay chó sói? Thôi từ giã lũ cừu. Biết làm sao nói Có tìm, có than vãn cũng toi công Làm gì bây giờ? anh cứ thế cho xong Anh dẫn lũ cừu còn lưa về nhà chủ “Hắn sẽ nướng anh đi, hỡi Giăng hàng ngày gian khổ! Anh buồn nghĩ vậy khi lê chân về Chủ nhà cũng không còn tốt số nữa đâu Đúng. Nhưng lần này! – Cứ đi về, kệ xác” Anh tự bảo thế và trên đường mải miết Đàn cừu anh vừa đến cổng sân Trên ngưỡng cửa chủ nhà nổi cơn Đang đứng đếm, như mỗi chiều, đàn cừu của hắn “Thưa ông chủ, ông đừng mất thì giờ đứng đếm Giấu làm chi? Đàn cừu thiếu, thiếu nhiều! Tôi chạy tìm khắp nơi, nhưng có thấy đủ đâu” Lời bộc lộ của cậu Giăng ta đó Nắm chòm râu cá trê mà vặn xoáy Ông chủ cậu Giăng lên tiếng trả lời “Tao không thèm nghe chuyện khôi hài Mày làm cho ông mày đây sôi máu!” Lời anh chăn cừu là những lời nhảm nhí Ông chủ cậu Giăng đã mất trí khôn rồi Ông chủ gào như con hổ dại mà thôi “Xóc đâu! xóc đâu! tao sẽ xóc! Này tên kẻ cướp! Ông phải treo cổ mày cho biết mặt! Quạ dữ sẽ móc mắt mày đi! Nuôi mày ăn, cho mày cháo, mày không biết ơn ai? Mày không thể nào thoát dây treo cổ! Xéo! Biến đi! Tao không muốn nhìn mày nữa!” Lời nói ra như một ngọn thác xô Tay hắn bỗng tóm một cây sào Hắn chạy đuổi theo Giăng như cuốn vó Giăng đẻ-rơi chạy nhanh trước chủ Nhưng cậu chạy trốn không phải vì sợ vì lo Với hai mươi thanh niên cậu đủ sức đương đầu Tuy Giăng mới chưa đầy hai mươi tuổi Anh chạy vì anh thấy thật là rất phải Khi chủ nhà bẳng hẳng nổi cơn xung Và nếu đánh, cậu có nên đánh hay không? Ông là người đã nuôi cậu, cậu coi ông như bố Cậu chạy hăng đến nỗi ông chủ nhà mệt lả Lão đi rồi ngừng, rồi lững thững lại đi Dọc phía này, ngang phía nọ: đâu bây giờ? Làm gì đây?Đầu lão ta bối rối
4
Mikorra a patak vize tükörré lett, Melybe ezer csillag ragyogása nézett: Jancsi Iluskáék kertje alatt vala; Maga sem tudta, hogy mikép jutott oda. Megállt, elővette kedves furulyáját, Kezdte rajta fújni legbúsabb nótáját; A harmat, mely ekkor ellepett fűt, bokort, Tán a szánakozó csillagok könnye volt. Iluska már aludt. A pitvar eleje Volt nyár idejében rendes fekvőhelye. Fekvőhelyéről a jól ismert nótára Fölkelt, lesietett Jancsi látására. Jancsinak látása nem esett kedvére, Mert megijedt tőle, s ily szót csalt nyelvére: “Jancsi lelkem, mi lelt? mért vagy oly halovány, Mint az elfogyó hold bús őszi éjszakán?” “Hej, Iluskám! hogyne volnék én halovány, Mikor szép orcádat utószor látom tán…” “Jancsikám, látásod ugyis megrémített: Hagyd el az istenért az ilyen beszédet!” “Utószor látlak én, szivem szép tavasza! Utószor szólt itten furulyám panasza; Utószor ölellek, utószor csókollak, Örökre elmegyek, örökre itt hagylak!” Most a boldogtalan mindent elbeszéle, Ráborúlt zokogó kedvese keblére, Ráborúlt, ölelte, de képpel elfordult: Ne lássa a leány, hogy könnye kicsordult. “Most hát, szép Iluskám! Most hát, édes rózsám! Az isten áldjon meg, gondolj néha reám. Ha látsz száraz kórót szélvésztől kergetve, Bujdosó szeretőd jusson majd eszedbe.” “Most hát, Jancsi lelkem, eredj, ha menned kell! A jóisten legyen minden lépéseddel. Ha látsz tört virágot útközepre vetve, Hervadó szeretőd jusson majd eszedbe.” Elváltak egymástól, mint ágtól a levél; Mindkettejök szive lett puszta, hideg tél. Könnyeit Iluska hullatta nagy számmal, Jancsi letörölte inge bő ujjával. Indult; nem nézte egy szemmel sem, hol az ut? Neki úgyis mindegy volt, akárhova jut. Fütyörésztek pásztorgyermekek mellette, Kolompolt a gulya… ő észre sem vette. A falu messzire volt már háta megett, Nem látta lobogni a pásztortüzeket; Mikor utójára megállt s visszanézett, A torony bámult rá, mint sötét kisértet. Ha ekkor mellette lett volna valaki, Hallotta volna őt nagyot sóhajtani; A levegőeget daruk hasították, Magasan röpűltek, azok sem hallották. Ballagott, ballagott a halk éjszakában, Csak nehéz subája suhogott nyakában; Ő ugyan subáját gondolta nehéznek, Pedig a szive volt oly nehéz szegénynek.DịchĐã đến lúc nghìn ngôi sao chấp chới Trong gương suối nước dập dờn trong Giăng đã đến nhà I-lu, cậu đứng đầu vườn Cũng không biết chân đưa đến đâu đây nữa Cậu đứng lại, nâng lên môi chiếc sáo Thổi điệu sáo buồn nhất xưa nay Sương chảy dài trên cỏ trên cây Phải chăng thương anh mà các ngôi sao khóc? I-lu ngủ rồi. Như thường ngày không khác Cô ngủ trước cửa ngăn mỗi lúc đến hè Điệu sáo này cô đã quen nghe Thức dậy vội vàng cô chạy về phía bạn Nhưng gặp nhau đâu có vui lòng lắm Cô lo lắng, cô hỏi bạn câu này: “Anh yêu ơi, anh sao thế? Anh xanh xao! Mặt anh như vành trăng đêm thu buồn bã” “Xanh xao phải không em? Làm sao không ảo não Khi lần cuối cùng anh được nhìn thấy mặt em” “- Nét mặt anh càng làm em sợ hãi thêm Giăng, em không muốn em nói như thế nữa!” “- Mùa xuân thắm lòng anh, thôi từ giã Em không còn nghe tiếng sáo anh than Em không còn thấy anh ve vuốt yêu thân Anh đi mãi, anh xa em mãi mãi!” Cậu kể nàng nghe bao điều tê tái Cậu nghiêng mình trên ngực thổn thức I-lu Cậu sát mình đắm đuối, nhưng che mắt đẫm mờ Không nên để cô thấy đôi dòng lệ chảy “Em I-lu xinh tươi, đóa hoa hồng êm dịu Vĩnh biệt nhé! Lâu lâu hãy nhớ anh Khi em thấy cây gai bị bão cuốn lăn Em hãy nhớ tưởng người yêu còn lang thang đây đó” “- Giăng yêu quý của lòng em, nếu là phải thế Thì anh cứ đi, Chúa Trời theo dõi bước anh đi! Nếu trên đường anh thấy một cánh hoa rơi Hãy nhớ tưởng người anh yêu đang héo tàn ở quê cũ” Cậu rời tay cô em như lá rũ Mưa đông lạnh lẽo xâm chiếm hai trái tim non Giăng lấy cánh tay áo lót trong Thấm đôi má của I-lu đẫm lệ Cậu ra đi, mắt không nhìn đường cái Sẽ đi đâu? Bất cứ. Cậu không cần Các cậu chăn súc nhỏ, lắc chuông lên! Giăng qua gần các anh, vẫn không nghe tiếng sáo Làng đã xa rồi sau lưng cậu Không còn thấy lửa các cậu chăn bò Dừng chân lần cuối, mắt liếc ra sau Bóng đen gác chuông nhìn Giăng sửng sốt Ai đứng gần trong giây phút Sẽ nghe Giăng cất tiếng thở dài Trên trời cao đàn sếu đang bay Sếu quá xa không nghe được Giăng dài tiếng thở Cậu bước đi, bước đi, trong đêm vắng vẻ Chỉ nghe tiếng sột soạt áo khoác ngoài Cậu nghĩ: “Nàng trĩu nặng lòng tôi” Thương thay! Chính lòng Giăng trĩu nặng
5
Mikor a nap fölkelt, s a holdat elküldte, A puszta, mint tenger, feküdt körülötte; A nap fölkeltétől a nap enyésztéig Egyenes rónaság nyujtózkodott végig. Nem volt virág, nem volt fa, nem volt bokor ott, A harmat apró gyér füveken csillogott; Oldalvást a napnak első sugarára Fölpiroslott egy tó; környékezte káka. A tónak szélénél a káka közepett Egy hosszú nyakú gém eledelt keresett, És a tó közepén gyors halászmadarak Hosszú szárnyaikkal le s föl szállongtanak. Jancsi csak ballagott sötét árnyékával S elméjének sötét gondolkozásával; Az egész pusztában széjjel sütött a nap, De az ő szivében éjek éje maradt. Mikor a nap elért az ég tetejére, Eszébe jutott, hogy falatozni kéne, Tennap ilyen tájban evett utójára, Meg alig is bírta már lankadó lába. Letelepűlt, elővette tarisznyáját, Megette maradék kevés szalonnáját. Nézte őt a kék ég, a fényes nap… alább Ragyogó szemével a tündér délibáb. A kis ebéd neki jóízűen esett, Megszomjazott rá, a tóhoz közeledett, Kalapjának belemártá karimáját, Ekkép enyhítette égő szomjuságát. A tónak partjáról nem távozott messze: Az álom szemének pilláját ellepte; Vakondokturásra bocsátotta fejét, Hogy visszanyerhesse elfogyott erejét. Az álom őt odavitte, ahonnan jött, Iluskája pihent hű karjai között, Mikor a kisleányt csókolni akarta, Hatalmas mennydörgés álmát elzavarta. Szétnézett a puszta hosszában, széltében; Nagy égiháború volt keletkezőben. Oly hamar támadott az égiháború, Mily hamar Jancsinak sorsa lett szomorú. A világ sötétbe öltözködött vala, Szörnyen zengett az ég, hullt az istennyila; Végtére megnyílt a felhők csatornája, S a tó vize sűrű buborékot hánya. Jó hosszú botjára Jancsi támaszkodott, Lekonyította a karimás kalapot, Nagyszőrű subáját meg kifordította, Úgy tekintett bele a vad zivatarba. De a vihar ami hamar keletkezett, Oly hamar is hagyta el megint az eget. Megindult a felhő könnyü szélnek szárnyán, Ragyogott keleten a tarka szivárvány. Subájáról Jancsi lerázta a vizet, Miután lerázta, ujra utnak eredt. Mikor a nap leszállt pihenni ágyába, Kukoricza Jancsit még vitte két lába. Vitte őt két lába erdő közepébe, Sűrű zöld erdőnek sötét közepébe; Ott őt köszöntötte holló károgása, Mely épen egy esett vadnak szemét ásta. Sem erdő, sem holló őt nem háborgatván, Kukoricza Jancsi ment a maga utján; Erdő közepében sötét ösvényére Leküldte világát a hold sárga fénye.Dịch Khi trăng tàn, mặt trời hửng Cánh đồng quanh cậu là một mặt biển yên lành Không biết ngày mọc nơi đâu và nơi đâu ngày tan Mênh mông biết bao cánh đồng vô định Không hoa, không cây, không bụi rậm Sương mai chấp chới trên lá cỏ lơ thơ Chói ánh sáng đầu ngày, bên đường đi Ửng hồng mặt ao xung quanh đầy lau lách Bên bờ ao, trong hàng lau, đứng nấp Con hạc cổ dài đứng kiếm mồi ăn Ngoài ao, chim bói cá sải cánh lướt ngang Đua nhau lượn giữa trời xanh và mặt nước Trên đường cậu Giăng vẫn còn tiến bước Bóng in trên đất và đêm ngập trong lòng Mặt trời khắp nơi chiếu rạng cánh đồng Nhưng lòng cậu vẫn vô cùng tăm tối Trên trời xanh mặt trời lên cao mãi Giăng tự nhủ mình: “Phải nhắm chút bánh mì thôi” Vì hôm qua cậu nhịn đói vào giờ này Đầu gối mỏi không giữ người cậu nổi Dừng chân cậu ngồi, cậu mở bị Bỏ vào mồm miếng mỡ cũ thừa Trời xanh, nắng hồng chói nhìn người Và một ảo cảnh ngời xa ve vuốt Bữa ăn ngon mồm tuy ăn ít Cơn khát đến. Cậu lê đến sát ao Múc nước bằng cái mũ dạ đội đầu Và cơn khát được nguôi dần lửa đốt Bờ ao cậu không thể nào từ biệt Cậu cảm thấy giấc ngủ đè xuống trên mi Trên hang chuột chũi, đầu cậu nằm ngơi Để vớt lại một chút nào sức kiệt Một giấc mơ kéo cậu về nơi cậu vừa rời bước I-lu nằm ngủ trên tay cậu trung thành Khi cậu muốn ôm cô bé vào mình Cơn sét kinh người lay tỉnh dậy Cậu dạo mắt trên cánh đồng quanh đấy Cậu thấy trên trời một trận chiến đấu lớn sẵn sàng Vận rủi sẵn sàng đập xuống đầu Giăng Bão táp cũng sẵn sàng thổi tới Trời buổi sáng có vải tang dài phủ dậy Trong không gian tiếng sét đánh ầm ầm Những cuộn mây dày xối nước miên man Ao vỗ bờ, bọt nước dềnh tới tấp Giăng chống lên cây gậy dài cứng cáp Cậu kéo xuống mắt chiếc mũ rộng vành Áo tơi lông dài cậu khoác trái trên lưng Cậu bước xông vào cơn bão dữ Nhưng nếu cả bầu trời bão giông mau chiếm cứ Bão giông tan cũng không kém nhanh hơn Gió bể thổi mây đi lớp lớp từng đàn Chói phương đông cầu vồng vui lộng lẫy Giăng rũ áo tơi đầy nước dấy Áo nhẹ hơn nhiều. Cậu lại lên đường Mặt trời mỏi mệt cũng đã muốn nghỉ chân Mặt trời lặn vẫn thấy Giăng còn lê bước Giăng đi đến giữa rừng cây rậm rạp Rừng cây to ngang dọc bao cành Con quạ đen lên tiếng dữ chào anh Nó vừa moi mắt một xác chết thối Rừng cây cũng như quạ đen không làm Giăng kinh hãi Giăng đi và thẳng trước mặt Giăng đi Trên đường hẻm băng rừng cây Ánh trăng nhạt màu vàng le lói
6
Az idő járása éjfél lehetett már, Mikor szemébe tünt egy pislogó sugár. Amint közelebb ért, látta, hogy ez a fény Ablakból világít az erdő legmélyén. Jancsi e látványra ekkép okoskodék: “Ez a világ aligha csárdában nem ég; Bizonyára ugy lesz – hál’ a jóistennek! Bemegyek az éjre, benne megpihenek.” Csalatkozott Jancsi, mert az nem volt csárda, Hanem volt tizenkét zsiványnak tanyája. Nem állott üresen a ház, a zsiványok Mind a tizenketten odabenn valának. Éjszaka, zsiványok, csákányok, pisztolyok… Ha jól megfontoljuk, ez nem tréfadolog; De az én Jancsimnak helyén állt a szíve, Azért is közéjük nagy bátran belépe. “Adjon az úristen szerencsés jó estét!” Mondott nekik Jancsi ilyen megköszöntést: Erre a zsiványok fegyverhez kapának, Jancsinak rohantak, s szólt a kapitányok: “Szerencsétlenségnek embere, ki vagy te? Hogy lábadat mered tenni e küszöbre. Vannak-e szüleid? van-e feleséged? Akármid van, nem fog többé látni téged.” Jancsinak sem szíve nem vert sebesebben E szókra, sem nem lett haloványabb színben; A zsiványkapitány fenyegetésire Meg nem ijedt hangon ily módon felele: “Akinek életét van miért félteni, Ha e tájt kerüli, nagyon bölcsen teszi. Nekem nem kedves az élet, hát közétek, Bárkik vagytok, egész bátorsággal lépek. Azért, ha úgy tetszik, hagyjatok életben, Hagyjatok ez éjjel itten megpihennem; Ha nem akarjátok ezt: üssetek agyon, Hitvány életemet védeni nem fogom.” Ezt mondta, nyugodtan a jövendőt várva, A tizenkét zsivány csodálkozására. A kapitány ilyen szókat váltott véle: “Egyet mondok, öcsém, kettő lesz belőle; Te derék legény vagy, azt a bátor szented! Téged az isten is zsiványnak teremtett. Éltedet megveted, a halált nem féled… Te kellesz minekünk… kezet csapunk véled! Rablás, fosztogatás, ölés nekünk tréfa, E derék tréfának díja gazdag préda. Ez a hordó ezüst, ez meg arany, látod?… Nos hát elfogadod a cimboraságot?” Furcsa dolgok jártak Jancsi elméjében, S tettetett jókedvvel szólt ilyeténképen: “Cimborátok vagyok, itt a kezem rája! Rút életemnek ez a legszebb órája.” “No, hogy még szebb legyen,” felelt a kapitány, “Lássunk, embereim, az áldomás után; Papok pincéjéből van jó borunk elég, Nézzük meg a kancsók mélységes fenekét!” S a kancsók mélységes fenekére néztek, S lett eltemetése fejükben az észnek; Maga volt csak Jancsi, ki mértéket tartott, Kinálgatták, de ő aprókat kortyantott. Álmot hozott a bor latrok pillájára… Jancsinak sem kellett több, ő csak ezt várta. Mikor a zsiványok jobbra, balra dőltek, Jancsi a beszédet ilyformán kezdé meg: “Jó éjszakát!… nem kelt föl titeket sem más, Majd csak az itéletnapi trombitálás! Élete gyertyáját soknak eloltátok, Küldök én örökös éjszakát reátok. Most a kincses kádhoz! Megtöltöm tarisznyám, Hazaviszem neked, szerelmes Iluskám! Cudar mostohádnak nem lész többé rabja, Feleségül veszlek… isten is akarja. Házat építtetek a falu közepén, Ékes menyecskének odavezetlek én; Ottan éldegélünk mi ketten boldogan, Mint Ádám és Éva a paradicsomban… Istenem teremtőm! mit beszélek én itt? Zsiványoknak vigyem el átkozott pénzit? Tán minden darabhoz vérfoltok ragadtak. S én ilyen kincsekkel legyek boldog, gazdag? Hozzájok sem nyúlok… azt én nem tehetem, Nincs elromolva a lelkiismeretem. – Édes szép Iluskám, csak viseld terhedet, Bízd a jóistenre árva életedet!” Mikor elvégezte Jancsi a beszédet, Az égő gyertyával a házból kilépett, Meggyujtá födelét mind a négy szögleten, Elharapózott a mérges láng sebesen. Egy láng lett a födél szempillantás alatt, A láng piros nyelve az ég felé szaladt, Feketévé vált a tisztakék égi bolt, Elhaloványodott a teljes fényü hold. A szokatlan világ amint elterjedett, Fölriasztotta a baglyot, bőregeret; Kiterjesztett szárnyak sebes susogása A falombozatok nyugalmát fölrázta. A föltámadó nap legelső sugára Lesütött a háznak füstölgő romjára, Pusztult ablakán át benézett a házba, Ott a haramjáknak csontvázait látta.Dịch Có lẽ đêm đã gần khuya rồi đó Đập mắt anh một ánh lửa chập chờn Anh thấy khi anh đến gần hơn Thì đúng ánh lửa soi một cửa sổ trong rừng thẳm Giăng trông ánh lửa và Giăng lập luận: “Hoặc tôi nhầm to, hoặc ánh lửa nơi kia Là ánh lửa một quán xa Ta vào nghỉ đêm, tôi cần nghỉ lắm” Giăng đã nhầm. Không phải là ngôi quán Mà chính sào huyệt của kẻ trộm, mười hai tên Nhà không phải vắng không Mười hai tên trộm quần áo chỉnh tề ngồi đó Khuya khoắt kẻ trộm có súng, có dao mã tấu Phải xét kỹ, không phải chuyện để cười chơi Nhưng lòng Giăng muốn biết rõ việc đời Sự nguy hiểm giục anh, làm anh càng muốn đến Giăng nói với họ những lời chúc tụng: “Tôi xin kính chào tất cả các ông!” Anh bỗng thấy đám người ăn trộm rộn ràng lên Họ đổ dồn về phía Giăng. Tên đầu đàn đứng hỏi: “Thằng kia, đứng lại! Mày ở đâu tới Mày là ai mà dẫm chân lên ngưỡng cửa này? Bố mẹ mày đâu? Mày có vợ hay chưa? Chẳng ai trong nhà mày sẽ còn thấy mày nữa đó!” Giăng nghe những lời mắng mỏ Mặt anh xám lại, tim đập mạnh hơn Nhưng nghe tiếng doạ dẫm của tên đầu đàn Giọng không núng anh lên tiếng trả lời: “Những ai sợ chết ở trong đời Thì chốn này khôn hơn nên lẩn tránh Còn tôi, tôi không thiết gì cuộc sống Dù các ông là ai, tôi cũng xin can đảm vào đây Đêm nay để tôi ngủ dưới mái nhà này Để cho tôi sống. Tuỳ các ông quyết định Hoặc đánh tôi đi, giết tôi đi nếu các ông muốn Đời tôi không quý lắm: bảo vệ làm chi?” Anh nói, rồi bình tĩnh anh chờ Những tay kẻ trộm lấy làm lạ lắm Tên đầu đàn bỗng trả lời dịu giọng: “Ta nói ít, ta nói cho đúng, em ơi Em là một cậu trai cao thượng, ta nói thật lời Trời sinh em để đi ăn trộm như các bác Em khinh rẻ cuộc đời, em không sợ chết Nào bắt tay, các bác cần những kẻ như em đây! Trộm, cướp, giết người chỉ là những trò chơi Nhưng trò chơi cao thượng, mang về nhiều của Thùng đầy vàng bạc, em nhìn thấy chứ? Thế nào, em muốn vào phường bạn hay không?” Đầu óc Giăng cứ thế rối bùng Anh làm bộ tươi cười, anh nói: “Thưa các anh, tay em đây, chúng ta cùng hội Đây ngày đẹp nhất cuộc đời chó chết của em!” Tên đầu đàn nói tiếp: “Để nó đẹp hơn Các con ơi, chúng ta cùng nâng cốc Kho rượu nhà thờ có nhiều rượu tốt Ơn Trời, ta hãy mở các bình rượu của ta” Các chum rượu ngon lành làm sao Đến nỗi trí khôn đều ngụp vào cốc rượu Giăng, chỉ có Giăng là còn điều độ Anh chạm cốc, nhưng nào có uống bao nhiêu Rượu uống vào, giấc ngủ vào theo Giăng không muốn gì hơn, chỉ chờ có vậy Khi anh thấy kẻ trộm nằm ngổn ngang đây đấy Giăng bèn nói với chúng như sau: “Ngủ ngon nhé! vì chẳng gì đánh thức được đâu Nếu không phải là tiếng kèn Ngày Xử Tội Bao nhiêu cuộc đời bị chúng bay làm ngắc ngoải Đến lượt tao cho bay vào hẳn đêm dài Còn vàng bạc! Ta nhét vào bao đây Và mang về cho I-lu dịu ngọt Giải phóng em ra khỏi mụ dì ác nghiệt Cho nó đi đời! Và Trời muốn anh lấy em Này ngôi nhà mới giữa xóm thôn Em mặc đẹp, một chiều đẹp, anh dẫn em đến đó Ở đó trôi những ngày vui của hai đứa Như Ê-va và A-đam trên thiên đường Nhưng Chúa ơi, tôi nói gì? Tôi nói thế chăng? Tôi mà lấy của kẻ trộm những bạc vàng tội lỗi Mỗi thoi bạc vàng đều nằm trong máu dội Sao? Tôi còn dính làm chi đến của cải này! Tôi không muốn cầm, không muốn sờ tay Lương tâm tôi, vững vàng còn đứng đó I-lu xinh đẹp, dịu dàng, em cứ đeo cây thánh giá Em gửi cuộc đời em côi cút cho Đức Chúa Trời!” Khi Giăng đã nói hết lời Cây nến cầm tay, anh rời ngưỡng cửa Bốn góc mái nhà gianh anh châm lửa Ngọn lửa bốc cháy vội vàng Trong nháy mắt, một bó đuốc: mái nhà gianh Ngọn lửa vút trời cao vòi vọi Nền trời xanh thành một bức trần đen rói Mảnh trăng rằm chỉ còn như chiếc đĩa nhạt nhờ Ánh lửa mênh mông trận cháy nhà Làm cho cú vọ, cho dơi khiếp sợ Tiếng cánh bay đập vào nhau bỡ ngỡ Kéo lá cây ra khỏi giấc ngủ yên lành Ánh ngời tảng sáng mặt trời lên Rọi đống củi tàn ngôi nhà cháy Lách qua khung nát một cửa sổ Nó nhìn từng thằng vô lại cháy sém bộ xương người
8
Nos hát ment a sereg, csak ment, csak mendegélt, Tatárországnak már elérte közepét; De itten reája nagy veszedelem várt: Látott érkezni sok kutyafejű tatárt. Kutyafejű tatár népek fejedelme A magyar sereget ekkép idvezelte: “Hogy mikép mertek ti szembeszállni vélünk? Tudjátok-e, hogy mi emberhússal élünk?” Nagy volt ijedtsége szegény magyaroknak, Minthogy a tatárok ezerannyin voltak; Jó, hogy akkor azon a vidéken jára Szerecsenországnak jószívű királya. Ez a magyaroknak mindjárt pártját fogta, Mert Magyarországot egyszer beutazta, S ekkor Magyarország jámbor lelkü népe Igen becsületes módon bánt ővéle. El sem feledte ezt a szerecsen király: Azért a magyarok védelmére kiáll, S a tatár császárral, kivel jóbarát volt, Kiengesztelésűl ily szavakat váltott: “Kedves jóbarátom, ne bántsd e sereget, Legkisebbet sem fog ez ártani neked, Igen jól ismerem én a magyar népet, Kedvemért bocsásd át országodon őket.” “A kedvedért, pajtás, hát csak már megteszem.” Szólt kibékülve a tatár fejedelem, De még meg is írta az úti levelet, Hogy senki se bántsa a magyar sereget. Az igaz, hogy nem is lett semmi bántása, De mégis örűlt, hogy elért a határra, Hogyne örűlt volna? ez a szegény vidék Egyebet se’ terem: medvehúst meg fügét.Dịch Và cứ như thế đoàn quân đi Nó đã vào giữa đất Tác-ta rồi đó Nhưng nỗi nguy lớn rình chờ đoàn quân nọ Đó là những đám mây nham hiểm xứ Tác-ta Chúa Tác-ta nét mặt bạo tàn Gửi đoàn quân Hung lời chào ngổ ngáo: “Các anh sao can đảm chạm vào quân lão? Các anh không biết ta thích chén thịt người?” Đoàn lính Hung sợ khiếp đi thôi Quân đội Tác-ta sao nhiều đến thế Nhưng cũng may đúng vào lúc đó Vua bộ lạc Xa-ra-đanh đi ngang qua Vua ấy bảo vệ đoàn quân ta Ở Hung người đã đi chơi thăm đất nước Và nhân dân Hung vui thích Đã từng đối xử tốt hơn ai hết với nhà vua Vua Xa-ra-đanh không quên được bao giờ Cho nên với đoàn quân Hung ông giúp Với chúa Tác-ta bạn thân chí thiết Vua can ngăn, vua nói những lời sau: “Hãy để đoàn quân nó yên, không sao đâu Bạn thân ơi, nó sẽ không quấy rầy gì bạn Nhân dân Hung và tôi, đã từng quen biết Bạn làm ơn cứ để đoàn quân đi qua” Dịu lời hãy nghe tiếng chúa Tác-ta: “Được rồi, thôi để làm vui lòng bạn tốt” Không những thế, chúa còn cho một tờ hộ chiếu Để đi không bị rắc rối trên đường Sự thật, không xảy việc gì phiền lòng Và khoan khoái bao nhiêu khi đến biên giới Cũng còn tí việc này: xứ đây nghèo quá đỗi Muốn ăn chỉ có gấu và quả si
9
Tatárország hegyes-völgyes tartománya Messziről nézett a seregnek utána, Mert jól bent vala már nagy Taljánországban, Rozmarínfa-erdők sötét árnyékában. Itt semmi különös nem történt népünkkel, Csakhogy küszködnie kellett a hideggel, Mert Taljánországban örökös tél vagyon; Mentek katonáink csupa havon, fagyon. No de a magyarság erős természete, Bármi nagy hideg volt, megbirkózott vele; Aztán meg, ha fáztak, hát kapták magokat, Leszálltak s hátokra vették a lovokat.Dịch Xứ Tác-ta đầy cả núi đồi Không còn nhìn thấy đoàn quân ta nữa Đoàn quân ta đi vào lòng nước Ý Dưới bóng dày rừng rậm cây xanh Ở đấy không gì đáng nói ngoài chuyện kỵ binh Bị rét mướt căm căm ghê gớm Mùa đông nước này kéo dài suốt năm suốt tháng Và quân ta chỉ đạp tuyết dẫm băng Nhưng sao! ai nói người Hung là nói tính khỏe lành Rét đến đâu cũng là chịu được Nếu có lập cập anh run, việc càng giản dị Anh đứng chân xuống đất, anh vác ngựa trên lưng
Anh mộng thấy chiến tranh
Háborúval álmodám az éjjel, Háborúba hítták a magyart; Fölhivó jelül, mint hajdanában, Országszerte járt a véres kard. S fölriadt a véres kard láttára, Akinek csak egy csepp vére volt. A szabadság drága koszorúja, Nem hitvány pénz volt a harci zsold. Épen e nap volt menyegzőnk napja, Az enyém, leányka, s a tiéd; S én, hogy haljak a honért, elhagytam Házasságunk első éjjelét. Úgye, lyányka, a menyegző napján Menni és meghalni, szörnyű vég? És mégis, ha rákerülne a sor, Ugy tennék, mint álmomban tevék.Dịch Đêm nay anh mộng thấy chiến tranh Tất cả người Hung đều đứng dậy Dấu hiệu kết đoàn xưa đã thấy Lưỡi gươm dấy máu vẫy không gian Ai đã thấy gươm đều giật nẩy Miễn còn máu nóng trong tim ta Chẳng tại đồng lương mà chiến đấu Nhưng vì vinh dự của tự do Chính ngày đám cưới đôi ta Ngày em sung sướng cũng là ngày anh Tối đầu thao thức năm canh Anh nguyền đem hiến tuổi xanh cho đời Dày vò bao xiết em ơi Đi ra chết trận khi đời còn vui Nhưng giờ Tổ quốc lâm nguy Thì anh cũng sẽ ra đi, như mộng thấy rồi
Biển động
Föltámadott a tenger, A népek tengere; Ijesztve eget-földet, Szilaj hullámokat vet Rémítő ereje. Látjátok ezt a táncot? Halljátok e zenét? Akik még nem tudtátok, Most megtanulhatjátok, Hogyan mulat a nép. Reng és üvölt a tenger, Hánykódnak a hajók, Sűlyednek a pokolra, Az árboc és vitorla Megtörve, tépve lóg. Tombold ki, te özönvíz, Tombold ki magadat, Mutasd mélységes medred, S dobáld a fellegekre Bőszült tajtékodat; Jegyezd vele az égre Örök tanúságúl: Habár fölűl a gálya, S alúl a víznek árja, Azért a víz az úr!Dịch Biển động Biển mênh mông các dân tộc dâng cao Sóng quật Rung rinh trái đất Hắt bọt lên trời Anh thấy chăng điệu vũ kia? Anh nghe chăng bản nhạc? Ngày xưa anh chưa biết Ngày nay anh học đi! Để biết thế nào các dân tộc reo cười! Cuồng điên thịnh nộ Biển đập vỡ tàu Chôn tàu đáy vực Cột buồm gãy rắp Lá buồn rách tan tành Anh cứ sâu sắc hờn căm Dâng cao nữa lên, hỡi cơn hồng thuỷ! Dòng nước lũ Vứt tung bọt sóng Lên đến trời cao! Nhớ ghi lên bầu trời Bài học nghìn đời: Dù thuyền hãnh diện trôi trên mặt biển Nhưng chính sóng ngầm Sẽ có thể lật đổ thuyền anh!
Cái chết đến (trích) Jött a halál
Jött a halál, hogy elsöpörjön minket A föld szinéről, jött a döghalál, Reánk lehelte rothadó lelkéből Azt sátándühhel a gonosz király. Tombolt a vész irtóztató erővel A végitélet végórájaként, És ím mi élünk még és nem halánk meg, Csak meghajoltunk, de el nem törénk! Él a magyar még, áll a hon, s hol egykor Olyan halotti volt a hosszu csend, Minő zajt üt most ott a harcoló kard! Minden csengése egy világra cseng! Oh népem, eddig önmagad se tudtad, Hogy létezel, s most tudja a világ: Utósó voltál, s íme a legelsők, Most még ők is bámulva néznek rád. Melyik magyar nem szégyenlé előbb hogy Sors átkából magyarnak született? S melyik nem büszke most reá, hogy isten Kegyelméből e nemzet tagja lett? Méltóbb vagy a legdrágább koszorúra, Mint bárki más, méltóbb vagy igazán; Oh hol keressek, hol lelek virágot, Dicső fejedre illőt, szent hazám?Dịch Cái chết đến để gạt ta Ra khỏi các quốc gia trên thế giới Hơi thở thối của thằng vua điên dại Làm nặng nề không khí quanh ta Bão táp dồn dập vào ta Như ngày bị xử tội Nhưng chúng ta còn đang sống Ta quắp người dưới gánh nặng, nhưng hắn không dập gãy được ta Người Hung đứng thẳng trên Tổ quốc hồi xuân Nơi ngày xưa bao phủ trong lặng im của cái chết Không khí đã rung của chiến tranh tiếng thét Tiếng vũ khí vang dội ra xa Cho đến nay, anh không biết có anh nữa, hỡi dân tộc ta Và bây giờ cả hoàn cầu đã biết tên anh rồi đó Trong các dân tộc, anh là kẻ đứng cuối cùng Và bây giờ, cả hoàn cầu ca ngợi chiến công anh Người Hung ngày xưa rủa nguyền mệnh số Đã làm tội anh phải mang tên đó Ngày nay, anh được trời ban ơn Đã cho anh đẻ làm người Hung Tổ quốc ơi, anh xứng đáng với mũ triều thiên bất diệt Xứng đáng hơn quốc gia nào hết Và tôi không tìm đâu ra những đóa hoa đẹp hơn Để đội lên trán anh ngời rạng quang vinh
Chiếc xe bốn con bò kéo
Nem Pesten történt, amit hallotok. Ott ily regényes dolgok nem történnek. A társaságnak úri tagjai Szekérre ültek és azon menének. Szekéren mentek, de ökörszekéren. Két pár ökör tevé a fogatot. Az országúton végig a szekérrel A négy ökör lassacskán ballagott. Világos éj volt. A hold fenn vala; Halványan járt a megszakadt felhőkben, Miként a bús hölgy, aki férjinek Sírhalmát keresi a temetőben. Kalmár szellő járt a szomszéd mezőkön. S vett a füvektől édes illatot. Az országúton végig a szekérrel A négy ökör lassacskán ballagott. A társaságban én is ott valék, S valék szomszédja épen Erzsikének, A társaságnak többi tagjai Beszélgetének s énekelgetének. Én ábrándoztam s szóltam Erzsikéhez: “Ne válasszunk magunknak csillagot?” Az országúton végig a szekérrel A négy ökör lassacskán ballagott. “Ne válasszunk magunknak csillagot?” Szólék én ábrándozva Erzsikéhez. “A csillag vissza fog vezetni majd A mult időknek boldog emlékéhez, Ha elszakaszt a sors egymástul minket.” S választottunk magunknak csillagot. Az országúton végig a szekérrel A négy ökör lassacskán ballagott.DịchChuyện đẹp như thế này Thủ đô ta ít có Đường của ta lộng gió Nẻo dài vắt vẻo ngồi xe Bốn con bò đi, nặng nề bước một Đêm trong chiếu sáng một vầng Trăng kia nhẹ lướt trên tầng mây bông Vợ ai đi kiếm mộ chồng Hay làn gió thoảng trên đồng cỏ tươi Hương thơm toả ngát lưng trời Bốn con bò kéo, đường dài bước một Tôi ngồi trên xe cùng bạn tốt Tôi ngồi bên cạnh Ê-va Người người vui hát gần xa chuyện trò Chập chờn đôi mắt tôi mơ Ghé tai khẽ bảo nàng cho tự tình: “Không ngắt lấy vì sao xinh Về cho đôi lứa chúng mình vui chơi?” Bốn con bào kéo dài hơi Đường xa bước một chân lôi nặng nề Bên nàng tôi nói tỉ tê: “Không ngắt vì sao xa Về cho đôi lứa chúng ta vui vầy? Mà sau có phải chia tay Em, anh có phải cách ngày cách đêm Sao kia sẽ dẫn đường tìm Nhớ ngày đôi trẻ trao duyên tự tình” Chúng tôi giơ tay ngắt Một vì sao cho đôi lứa chúng tôi Trên xe ấm áp cùng ngồi Bốn con bò kéo, đường dài bước một
Đại bác nổ bốn ngày liên tiếp
Négy nap dörgött az ágyu Vizakna s Déva közt, Ott minden talpalatnyi Földet vér öntözött. Fehér volt a világ, szép Fehér hó este be, Ugy omlott a piros vér A fehér hóra le. Négy hosszu nap csatáztunk Rettentő vad csatát, Minőt a messzelátó Nap csak nagynéha lát. Mindent megtettünk, amit Kivánt a becsület… Tízannyi volt az ellen, Győznünk nem lehetett. Szerencse és az isten Tőlünk elpártola, Egy pártfogó maradt csak Velünk: ez Bem vala. Oh Bem, vitéz vezérem, Dicső tábornokom! Lelked nagyságát könnyes Szemekkel bámulom. Nincsen szóm elbeszélni Nagy hősiségedet, Csak néma áhitattal Szemléllek tégedet, S ha volna ember, kit mint Istent imádanék, Meghajlanék előtted Térdem, meghajlanék. S nekem jutott a vészes Dicsőség, hogy veled Járjam be, oh vezérem, A csatatéreket. Te melletted lovaglék A harc veszélyiben, Ahol az élet pusztul És a halál terem. Sokan elhagytanak, te Rendíthetetlen agg, De úgy-e téged, úgy-e Én el nem hagytalak? S lépésid mind halálig Követni is fogom, Oh Bem, vitéz vezérem, Dicső tábornokom!Dịch Đại bác nổ bốn ngày liên tiếp Giữa Vi-dắc-na và Đê-va Trên chiến trường Mỗi hòn đất đều tơi bời đẫm máu Chung quanh ta thảy đều trắng toát Tuyết rơi phủ khắp các cánh đồng Chỉ có màu đỏ ố hoen Bức thảm trắng mênh mông xa tít Không phút nghỉ ngơi trong bốn này liên tiếp Ta chiến đấu ác liệt Mặt trời thấy hết mọi thứ xưa nay Cũng chưa hề thấy cuộc chiến đấu ác liệt này Chúng ta chiến đấu như bão táp Để bảo toàn danh dự, cờ Tổ quốc giơ cao Nhưng chúng ta không thể thắng Quân địch mười lần đông hơn ta Lần này, sự may mắn và Chúa Trời Đều không làm ta thắng giặc Chỉ còn một bàn tay giúp đỡ Bem, người chỉ huy ta, vẫn vững đến phút cuối cùng Ôi Bem, người chỉ huy anh dũng của tôi Vị đại tướng quang vinh của tôi Tôi ngợi ca sự cao quý của lòng Người Và nước mắt vui cực độ tràn hai má Tôi không đủ chữ Để tả lòng can đảm của Người Phấn khởi đầy lòng tôi Tôi ngợi ca Người, trầm lặng Nếu tôi có thể sùng bái một người Ngang một thần linh Vì công ơn Người xứng đáng Tôi sẽ sụp quỳ dưới chân Người Tôi được Cái vinh hạnh đầy hiểm nguy Đi bên cạnh Người Đến các chiến trường Trên ngựa chiến tôi đi theo Người Đến giữa các trận mạc Ở đó cuộc sống con người không đáng kể Và cái chết đem đến cho nhân dân những mùa gặt lớn Nhiều người rời bỏ Người Người – vị lão thành anh dũng, Nhưng tôi, chính Người đã làm chứng Tôi đi theo Người trung thành như cái bóng Từ đây tôi không rời xa Người nữa Cho đến hết đời tôi Ôi Bem, vị chỉ huy anh dũng Vị đại tướng quang vinhQua bài viết chúng ta thêm phần ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa và kiệt xuất của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Thật không hổ danh là một trong những nhà thơ hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Cảm ơn quý độc giả đã theo dõi bài viết này của chúng tôi! Xem Thêm :