Tam Liệt miếu – Nguyễn Du
Nàng Thái sinh con nàng Trác trốn Tơ bay hoa rụng xiết bao tình Ngàn thu bia đá nêu Tam liệt Muôn thuở cương thường gộp một dinh Dưới đất gặp nhau không mặt thẹn Bên sông đâu nhỉ viếng hồn trinh Thời bình bao kẻ lên râu thế? Tán hiếu bàn trung tự bốc mình
Triệu Vũ Đế cố cảnh – Nguyễn Du
Bạo Sở cuồng Tần diệt tiếp nhau Ung dung chào vái chủ nam khu Tự vui mình cũng xưng hoàng đế Giữ thiện còn thêm phục gã nho Trăm thước đài cao nghiêng Lĩnh Biểu Ngàn năm mộ cũ lấp Phiên Ngu Đáng thương triều đại thay nhau đổ Chẳng sánh man di một lão phu
Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1 – Nguyễn Du
Hai ngàn năm trước người hiền vắng Đây vẫn còn lan chỉ nức hương Nước tổ ba năm thương đày đọa Sở Từ ngàn thuở nổi văn chương Cá rồng sóng nước xương tàn hết Đỗ nhược bên bờ nắm cỏ thơm Mòn mắt thương tâm đâu đấy nhỉ Gió thu lá rụng vượt Nguyên Tương
Trấn Vũ quán – Nguyễn Hoan
Đền cổ ven hồ nắng xế hồng Rắn rùa thấp thoáng ánh gươm lồng Ngàn năm thành quách khói bụi vẳng Trăm thước lâu đài trăng nước trong Trời bắc lạnh quang thu thích thú Hồ Tây mù giải tối đêm không Thăng Long cảnh vật nguyên như cũ Chống đỡ trời cao nhớ mãi công
Du hồ kỳ 1 – Nguyễn Mộng Tuân
Gác điện im lìm mới xế trưa Việc xong nào chốn hẹn câu thơ Hồ Tây gần có nhà Trần đấy Phần thuỷ ngâm chi Hán võ từ Vàng tán gió cao cành liễu động Đẹp cờ trời chuyển bóng mây đưa Thì đem việc nước bàn sâu kỹ Hà tất Bồng Doanh cố ý mơ
Du hồ kỳ 2 – Nguyễn Mộng Tuân
Lâu đài cung điện cảnh như tranh Man mác lâng lâng thoả tính tình Pha ráng ngọn bàng trời một sắc Hoa lau lẫn tuyết nguyệt ba canh Ánh hồ trong suốt sâu ba lớp Vị quế hương bay khắp thị thành Ơn đội phúc về nơi đế khuyết Những mong ơn huệ thấu dân lành
Du hồ kỳ 3 – Nguyễn Mộng Tuân
Ngựa xe tấp nập mé tây thành Man mác hồ thu điệu sáo sênh Muôn khoảnh ngọc ngời trời một sắc Chín trùng thắm đậm nước trong xanh Oai nghiêm gang tấc phao câu nổi Bãi vắng đê cao cánh nhạn quanh Một chuyến theo hầu chơi bến nước Mong cho đây đó thấm mưa lành
Trấn Vũ Quán – Nguyễn Tấn Cảnh
Hoa khói năm đời đã bụi trần Non sông đền miếu mới vô ngần Ai hay chày sắt sau mòn mỏi Lại thấy kim cương hiển hiện thân Quán hạc hồi chuông xua sớm tối Đầm rồng khí kiếm động dòng Ngân Nhìn xem xanh đỏ bao thần diệu Cây cổ đài gương ánh nước xuân
Tây Hồ – Nguyễn Thượng Phiên
Tám lá khuôn vàng nửa hoá mơ Đài cao sừng sững chốn danh đô Thu về trời đất xinh vô hạn Vẽ rõ non song cảnh chả mờ Đêm vắng hồi chuông thu lẫn mộng Trời cao ánh kiếm nguyệt cùng trơ Hồ Tây muôn mảnh mênh mang nước Cũng giống lòng băng giữa đáy hồ.
Hoạ Cao Mẫn Hiên du Tây Hồ – Phan Sĩ Ái
Ngồi nhớ Hồ Tây tháng hai trước Gió xuân mang rượu liễu xanh bên Lại về mũ kiếm ngày nao nhỉ? Một biệt non sông cách mấy niên Đài múa dòng Tô cùng khắc liễu Phòng thiền ông Tuệ dáng thơm sen Cố nhân chừng hiểu niềm xa cách Tô điểm guơng hồ đáng vẽ lên
Ức Tây Hồ xuân cảnh – Phan Sĩ Ái
Hồ Tây một mảng nước trời thu Khói nhẹ mù hơi tiếp bãi bờ Chuông vọng chập chờn Hoa quán sớm Ca chài qua lại Nguyệt đài trơ Hài sen ai đó ngang bờ cách Vó ngựa nào dong rặng liễu tơ Một biệt yên hoa đâu chốn hỏi Cố nhân nên có chuyến chơi đò
Lý Trung Xã – Phan Kính
Dân nếp Ân Chu trọng nghiệp nông Lệ làng tế xã mọi nhà chung Phần du không đổi nghiêm đền miếu Biên đậu thơm bay lắm thức dùng Mời chuốc đầy toà vui bõ lão Cắt chia tại cỗ náu anh hùng Mai ngày trai xóm nên lương tướng Già trẻ ơn đều miếng đỉnh chung
Tây Hồ nhàn vịnh kỳ 1 – Phùng Khắc Khoan
Lãng bạc bờ tây vãn cảnh xưa Hồ êm gương lặng nước êm ru Quanh hồ đây đó làng chen chợ Ngỡ dải dài sông uốn bến bờ
Tây Hồ nhàn vịnh kỳ 2 – Phùng Khắc Khoan
Đìu hiu bóng trúc lẻ thôn chòm Dăm bảy nhà chài loáng nắng hôm Sau buổi lưới câu say chén tối Cổng sài buộc lỏng chiếc đò con
Đề toán viên phường sở cư bích thượng – Thái Thuận
Trường An bụi đỏ ngựa xe quần Ta thích lều ta tự ẩn thân Điện Bắc sách không đời chả bận Hồ Tây trăng sẵn giúp thơ vần Nổi chìm mình cũng nên vui sống Vắng vẻ ai không tóc xoã trần Tâm sự hiểu thêm Trần xử sĩ Nội hoa chim hót đất trời xuân
Toán viên tự thuật – Thái Thuận
Ngàn thuở Trường An như giấc mộng Tình đời núi cũ trái câu thề Sáng theo cửa Bắc cùng chuông dậy Tối đến Hồ Tây cánh vạc về Thư xóm dưới đèn từng mở đọc Mây thành trước gác sớm bay đi Liễu cầu chưa nhớ nơi thăm lại Câu cá bên hoa thú cực kỳ
Huyền Thiên quán – Trần Bá Lãm
Cánh hạc năm nào xa vắng quá Trời nam nền cũ xám rêu phong Làng hoa thấp thoáng còn in dấu Luyện đá gò xưa nắng xế hồng
Khán sơn – Trần Bá Lãm
Trên núi am thiền cảnh vật sâu Đầu non chợt nhớ chuyến chơi lâu Cung xưa tượng báu nay đâu nhỉ Giờ lại lên xem dễ thấy sầu
Nùng sơn – Trần Bá Lãm
Cảnh đẹp trời tô điểm đế châu Non Nùng vẻ đẹp trước như sau Mây bay cánh hạc về đâu nhỉ Vẫn cũ cung đài sánh vọng lâu
Tam Sơn – Trần Bá Lãm
Núi Nùng sững mấy gò cao dựng Mầu cỏ xanh xanh bóng trúc rườm Chẳng nhớ năm nao xây cột ngọc Còn lưu tấm đá loáng tà dương.
Thái Hoà sơn – Trần Bá Lãm
Đầu non trải mấy cỏ hoa thu Chùa Phật lầu chuông cảnh đẹp lâu Vốn chốn triều xưa tới ngơi nghỉ Cung xưa nhớ lại cuộc hầu vua
Trấn Vũ quán – Trần Bá Lãm
Đã mấy trăm năm tượng cũ còn Nguy nga đền miếu sững hoa thôn Quỷ thần biến hoá ngàn năm kiếp Mây gió lâu dài vững pháp môn
Uy Linh Lang tự – Trần Bá Lãm
Con người không sức cản lũ thác Chuyển đá trời cao lấp suốt đêm Lụt lớn trên sông ngăn lại được Ơn thần đê cũ dựng ngôi đền
Vịnh Bố Cái Đại Vương từ – Trần Bá Lãm
Đâu cho quân Bắc hại sinh linh Khảng khái anh hùng dấy nghĩa binh Công đức như trời dài mến mộ Ngàn thu sự nghiệp vẫn thơm danh
Vịnh Đồng cổ đàn – Trần Bá Lãm
Hoa sen tám cánh vừa tàn mộng Thần núi nơi nào tự hiển linh Trần Cảnh về sau dời vật báu Xa nhìn đàn cũ cỏ còn xanh
Vịnh Tây Hồ – Trần Bá Lãm
Dòng trong núi đá cuốn trôi mau Lãng Bạc, Đầm Sương trải mấy thâu Chuyện cũ thịnh suy toàn giấc mộng Sông hồ người tựa lá đò câu.Trên đây là những bài thơ dịch tác giả khác của Bùi Hạnh Cẩn mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Qua đó bạn sẽ hiểu thêm về các tác giả Việt Nam nổi tiếng cũng như phần nào thể hiện được khuynh hướng văn chương và khả năng ngôn ngữ của nhà thơ này. Và cũng đừng quên đón đọc Chùm thơ dịch tác giả khác của Bùi Hạnh Cẩn phần 7 bạn nhé!