Thu tứ – Hứa Hồn
Gối trúc cây kỳ thu gió lộng Sông Tương mây Sở nhớ cùng chơi Ca vang một khúc che gương sáng Trai trẻ hôm xưa tóc bạc rồi
Mộc Lan Từ – Khuyết danh
Thẫn thờ lại thẫn thờ Mộc Lan đang dệt lụa Không nghe tiếng thoi đưa Chỉ nghe tiếng than thở Có phải nàng đang mong Có phải nàng đang nhớ Nàng chẳng có gì mong Nàng chẳng có gì nhớ Đêm qua chiếu ngà vua Triều đình tuyển quân ngũ Mười hai quyển sổ quân Sổ nào cũng tên bố Nhà sinh gái đầu lòng Nàng không có anh cả Đành ngựa gươm xông pha Thay cha nơi khói lửa Chợ đông mua ngựa khoẻ Chợ tây mua yên đai Chợ nam mua bàn đạp Chợ bắc mua roi dài Sớm từ biệt mẹ già Chiều ngủ trọ sông Hoàng Không nghe cha mẹ gọi con gái Chỉ nghe sông Hoàn tiếng ầm vang Sớm từ biệt cha mẹ Chiều ngủ sườn non Yên Không nghe cha mẹ gọi con gái Chỉ nghe ngựa Hồ hý suốt đêm Muôn dặm quân dong duổi Sông núi cách nước mây Gió bấc động giáo mác Trăng lạnh áo bào dày mười năm đánh trăm trận Tướng quân về nơi đây Trở về vào điện ngọc Dâng lời chúc đức vua Công lao mười lần gấp Ban thưởng khó ai so Nhà vua hỏi nguyện vọng Mộc Lan không muốn làm thượng thư Xin cho ngựa đi ngày ngàn dặm Phi về thăm làng xưa Cha mẹ nghe gái về Ra đón tận đầu làng Em gái nghe chị về Áo hồng bay đỏ đường Em trai nghe chị về Mổ dê giết lợn bày cỗ bàn Gác đông lại mở cửa Gác tây lại kê giường Cởi ngay bộ chiến giáp Mặc luôn quần áo thường Trước cửa trải mái tóc Tô mày đứng trước gương Ra cửa chào bạn lính Bạn lính thấy kinh hoàng Mười hai năm cùng đội Không biết Mộc Lan gái cải trang Thỏ cái chân bấy bớt Thỏ đực mắt mơ mơ Hai thỏ chung đường chạy Gái trai tạm đổi không ai ngờ.
Đề Từ Ân tháp – Kinh Thúc
Nước non nhà Hán còn đây, Tần Lăng cây cỏ chen dày mộ vua. Chiều mây ngàn dặm thẩn thơ, Nơi nào chẳng xát chẳng vò dạ ai.
Túc Long Hưng tự – Kỳ Vô Tiềm
Ở chùa, đêm quên về Điện cổ, thông êm hè Đèn sáng phòng phương trượng Châu ngời áo tăng ni Trời tỏ – tâm thành đạo Sen xanh – pháp diệu vi Hoa trời rơi chẳng dứt Chim ngậm, bay bốn bề
Lã Ôn – Củng lộ cảm hoài
Ngựa hý chiều trắng nắng Kiếm động thu rộn hơi Lòng này theo hoang hoải Bên sông suông ngậm ngùi
Đế kinh thiên – Lạc Tân Vương
Non sông ngàn dặm nước Chín tầng cửa đế đô Không xem cung điện lớn Đâu biết đất nhà vuaCung điện nhà vua Hào Hàm Cốc Nội Thuần núi Long chầu bốn phương Năm sao liền bóng ngời ánh sáng Tám sông chia dòng chảy vắt ngang. “Một chống trăm” ải Tần hiểm trở Ba mươi sáu cung thời Hán hoàng Điện quế nguy nga đối lầu ngọc Phòng tiêu mỹ lệ nối nhà vàng. Ba khu chín ngả đẹp thành dài Muôn nhà ngàn cửa bừng sớm mai Lâu đài san sát quán Chi Thước Đường quan thẳng tới Phượng Hoàng đài. Tể tướng cung nam tới Văn quan cửa bắc mời Tiếng tăm nhất thiên hạ Văn vật sóng sông trờiQuan võ thềm lan canh Hồ ngọc hoè rợp chợ Chim đồng theo gió xoay Chậu vàng trông móc rỏ. Gác Thiên Lộc bình văn Đầm Côn Minh luyện võ Lầu son chen đài cao Dinh tướng thông nội ngựĐài cao, nội ngự cao sừng sững Mâm vàng, tiệc ngọc gọi chuông rung Phòng buông rèm lụa ba ngàn hộ Đường lớn lầu hoa ngó chập trùng Lọng báu yên thêu vàng nhạc ngựa Cửa lan cột vẽ ngọc thần rồng Cột vẽ giường châu tường trắng ánh Rung vàng lắc ngọc vương hầu đông.Vương hầu sang trong nhiều cận thần Sáng chơi mạn bắc chiều dạo nam Chia vàng mở tiệc vui Lục Giả Tháo xe lưu bạn nhớ Trần Tuân Triệu, Lý luôn qua lại Tiều, Chu kết tình thân.Tường phượng thành son chiều bóng đổ Trâu đen, xe hồng, đường bụi đỏ Hiệp sĩ đạn ngọc rặng liễu buông Bên đường hái dâu rèm ca nữNhà hát mận đào mọc xum xuê. Khách chơi giàu sang chật kinh kỳ Em gái Diên Niên vào điện ngự Sứ quân áo là ngàn ngựa về Đồng lòng kết giải lụa Liền sợi dệt xiêm y Sớm xuân chén quế thơm trăm vị Đêm thu đèn lan rạng bốn bề Màn thắm rèm châu buông lấp loáng Tiếng đàn giọng hát êm tai nghe Ví nói “ba vạn sáu ngàn” đúng Bốn chín tuổi sai nào hay chi.Xưa nay danh nợi như mây bồng Đời người hoạ phúc gốc cùng chung Mới hay Điền, Đậu hiềm thù lớn Lại nghe Vệ, Hoắc đều có công. Kim Lăng thế chưa chán Quách đá đã khắc văn Cửa son đâu nữa Trương công tử Bá Đình ai sợ Lý tướng quân Nhìn nhau trăm năm đều có kỳ Muôn vật biến hoá nên thay đổi Phấn son hương sắc đã tiên tan Yến tiệc Bách Lương giờ ai nói.Xuân đến xuân đi qua vùn vụt Tranh danh đoạt lợi chuyện suông trò Ở lâu Lang Thự sao khó gặp Quét hoài cửa tướng ai biết cho.Thuở ấy một sớm khoe hào hoa Tự cho ngàn năm mãi kiêu sa Chốc lát gió đông mọc vây cánh Phút giây bùn đất khác chi mà Sẻ làm tổ cây quế Cửa đông đi trồng dưa.Vàng bạc tan nát, tơ trắng ố Một sang một hèn tình nghĩa rõ Má hồng đầu bạc chả bao năm Cơm lứt áo vải khinh cố nhân.Cố nhân cũng thăng trầm Bạn mới không ý khí Tro bụi thân Hàn An Lưới giăng cửa Địch uý. Quá lắm rồi Về đi thôi Mã khanh bỏ Thục tài thơ phú Dương Hùng làm quan ai nâng đỡ Ba đông tự khoe học đã thành Mười năm ở yên bao lỡ dở. Chất củi chuyện Cấp Ảm Chưa mở gác Tôn Hoằng Thấy Trường Sa ai tiếc Riêng phụ tài Lạc Dương.
Vô đề III – Liễu Phú
Sầu thương sóng nước ngắm trăng ngà Dáng mảnh làn đông giá lạnh tràn Người đẹp Tiêu Tương giờ ốm bệnh Gã tài kinh khuyết cũng lang thang Tằm xuân tới thác tơ vừa hết Nến sáp thành tro lệ chửa khan Muôn dặm núi mây không nói tới Suông nhờ hồn mộng đến Tương giang
Đăng Liễu Châu Nga Sơn – Liễu Tông Nguyên
Núi hoang thu đứng bóng Một mình ý mông lung Làm sao ngó làng cũ Tây bắc là châu Dung
Hạo Sơ thượng nhân kiến di tuyệt cú “Dục đăng tiên nhân sơn” nhân dĩ thù chi – Liễu Tông Nguyên
Óng ánh cây châu cách ráng mây Ốm đau ngoài tục lắm điều gay Núi tiên không thuộc người đeo ấn Gậy tích bay cao tự ý thầy
Nam giản trung đề – Liễu Tông Nguyên
Hơi thu dồn Nam Giản Một mình dạo giữa ngày Gió cuốn nghe hiu hắt Cao thấp cảnh rừng bày Mới tới như được của Vào sâu quên mệt ngay Chim lạ kêu hang thẳm Sóng rờn rêu lạnh dày Xa nước hồn vắng quạnh Nhớ người lệ suông đầy Sống lẻ dễ cảm xúc Lỡ vận ít điều may Quạnh quẽ rồi sao nhỉ Bâng khuâng lòng tự hay Ai là người sắp tới Có cùng nỗi niềm nay
Đề tăng viện – Linh Nhất thiền sư
Hổ Khê trăng lặng tiễn nhau qua Đọng tuyết cành thông trĩu tiết la Dằng dặc non xanh đi muốn hết Trắng mấy chốn thẳm lắm sư già
Hoạ Lý tú tài “Biên đình tứ thì oán” kỳ 3 – Lư Như Bật
Tháng tám sương bay liễu nửa vàng Bồng bay ngang lối nhạn sang nam Sông trôi đầu Lũng trăng quan ải Đẫm lệ Long Đôi ngóng cố hương
Hoạ Lý tú tài “Biên đình tứ thì oán” kỳ 4 – Lư Như Bật
Gió may thổi tuyết vết đau buốt Ngựa uống trường thành nước vũng hàn Giữa tối lửa bùng hay có giặc Cùng nhau gắng sức giữ non Lan
Nam lâu vọng – Lư Soạn
Lìa nước, hun hút Thục Lên lầu vạn dặm xuân Trên sông khách tủi dạ Quê cũ nào cố nhân
Đồng Tước đài – Lưu Đình Kỳ
Đồng đài cung quán bụi tro vương Chúa Nguỵ vườn lăng bến nước Chương Giờ ngó về tây bao xiết nhớ Nữa người múa hát nghĩ càng thương.
Công tử hành – Lưu Hy Di
Dưới cầu Thiên Tân sông xuân chảy Trên cầu Thiên Tân khách phồn hoa Tiếng ngựa hý vang cuốn mây biếc Sóng nước in bóng người lại qua Sóng biếc dập dờn ngọc làm cát Ráng mây làm gấm màu xanh ngát Đáng thương dương liễu cây đau lòng Đáng thương đào mận hoa đứt ruột Ngày nay rong chơi đón giai nhân Ngày nay ca múa vào nhà hát Nhà hát bao gái như hoa đẹp Bên cạnh công tử lại qua luôn Loang loáng rèm châu ngời ánh rạng Đong đưa mặt ngọc hồng phấn son Bâng khuâng lối hoa đôi bươm bướm Dập dìu bên đồng đôi uyên ương Nghiêng nước nghiêng thành Hán Vũ Đế Làm mây làm mưa Sở Tương Vương Xưa nay nhan sắc ai cũng chuộng Huống giờ lại thấy môi thắm son Xin làm lụa mỏng cuốn lưng thon Xin làm gương sáng soi mặt ngọc Với chàng cùng trông rồi cùng gần Với chàng song song thân bên thân Xin làm thông trinh ngàn thuở cổ Ai tường bông bụt một sớm xuân Trăm năm non Tây cùng gác bóng Muôn đời Bắc Mang cát bụi trầnBình phiên khúc kỳ 2 – Lưu Trường Khanh
Hoang hoải khói biên trơ Mênh mang cỏ ải khô Đầu non nào cần khép Muôn dặm không ngừa Hồ
Bình phiên khúc kỳ 3 – Lưu Trường Khanh
Đại quân rời sa mạc Cát dài lính thảnh thơi Suông trơ đá một phiến Núi Yên sững muôn đời
Hành dinh thù Lã thị ngự – Lưu Trường Khanh
Hoài Nam nằm đâu dám Theo tướng Hán xuất chinh Mệnh trao ngời búa soái Nén bệnh bái cờ tinh Áo rách mừng tô nhẹ Đầu bạc mời nước anh Nước xuôi trào nát bến Lửa cháy rợp cô thành Chiều muộn dàn muôn ngựa Gió thu hợp năm binh Khổng Chương vốn tài giỏi Chớp mắt hịch văn thành
Tống Lý phán quan chi Nhuận Châu hành dinh – Lưu Trường Khanh
Muôn dặm xa nhà mải chiến chinh Kim Lăng lối trạm Sở mây thênh Xuân sông chẳng chịu lưu hành khách Rộn vó câu dài sắc cỏ xanh
Tống Trịnh Duyệt chi Hấp Châu yết Tiết thị lang – Lưu Trường Khanh
Trôi nổi thân ngàn dặm Ngợi ca rộn trăm thành Chúa Hán tôn thái thú Đất Lỗ trọng nho sinh Tục đổi dân khó trị Sông xuôi nước trong xanh Đá ghềnh thuyên lướt vụt Núi loạn lối thông hành Già được Bồng Lai thú Xuân thương bạc tóc tình Từng nghe Mã Nam quận Dưới trướng có Khang Thành
Trùng tống Bùi lang trung biếm Cát Châu – Lưu Trường Khanh
Vượn kêu khách tản bến chiều rồi Người tự đau lòng nước tự trôi Cùng bọn quan đầy anh quá ngái Non xanh muôn dặm chiếc thuyền côi
Dữ ca giả Hà Kham – Lưu Vũ Tích
Hai chục năm thừa xa đế kinh Lại nghe tiên nhạc xiết bao tình Người xưa chỉ có Hà Kham vậy Vẫn thấy say sưa hát “Vị thành”
Thoái triều vọng Chung Nam sơn – Lý Chửng
Bãi chầu điện báu sắp hàng loan Đan Phượng lầu ngưng ngựa ngó ngang Chỉ có Chung Nam màu núi đậm Thanh minh vẫn đẹp khắp Trường An
Phụng hoạ thánh chế tòng Bồng Lai hướng Hưng Khánh các, đạo trung lưu xuân vũ trung xuân vọng chi tác ưng chế – Lý Đăng
Biệt quán xuân về khí tốt tươi Ba cung đường chuyển Phượng Hoàng đài Mây bay cửa bắc hơi lan tỏa Mưa tạnh non Nam núi biếc dài Liễu ngự vẫy theo nghìn trượng lướt Hoa rừng chẳng đợi sớm ban mai Đã hay ơn thánh sâu vô hạn Mừng nỗi thời hoa lắm kẻ tài
Tống Lưu thị lang – Lý Đoan
Mấy ai cùng giống Tạ Tuyên thành Chưa kịp đền ơn đã “tử sinh” Chỉ có vượn đêm hay hận khách Dịch Dương ba tiếng hú đường quanh
Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch (I) – Lý Ích
Trước núi Hồi Nhạc cát tựa tuyết Ngoài thành Thụ Hàng trăng như sương Chẳng hay sáo sậy nơi nào thổi Một tối chinh nhân thảy ngó làng
Diêm Châu quá Hồ nhi ẩm mã tuyền – Lý Ích
Nước rờn liễu biếc cỏ bồng lơi Ẩm Mã khe xưa chuyện cũ rồi Mấy nẻo khèn Hồ ngời bóng thỏ Nào ai chống kiếm trắng mây trời Bao phen tuyết ngất đường quan ải Nay buổi dòng chia sứ Hán xuôi Chớ để người đi soi mái tóc Những e héo hắt vẻ xuân tươi
Đề Thái Nguyên Lạc Mạc dịch tây hậu – Lý Ích
Chinh khách tại Tang Càn Sông Kế dằng dặc hàn Trạm tây đường quyến luyến Nay chuyến thẳng Trường An
Thính hiểu giốc – Lý Ích
Đêm qua sương ải động hàng du Tiếng ốc ngang thành mảnh nguyệt trơ Núi ngất nhạn hồng không vượt nổi Gió thu thổi khúc “Tiểu Thiền Vu”
Tòng quân bắc chinh – Lý Ích
Gió Hồ tê tái tuyết Thiên Sơn Ngang sáo ngân bài “Hành lộ nan” Biển cát quân đi ba chục vạn Quay đầu cùng ngó giữa trăng trànTrên đây là những bản dịch thơ tác giả khác của nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn mà chúng tôi giới thiệu với bạn. Qua đó bạn có thể hiểu thêm về nội dung của tác phẩm cũng như kuynh hướng văn chương mà các tác giả muốn chuyển tải. Bên cạnh đó bạn cũng đừng quên đón đọc Các bản thơ dịch tác giả khác phần 5 mà chúng tôi sẽ giới thiệu nhé!