Giới thiệu với quý độc giả yêu thơ Phần 1 của tập thơ Quốc âm thi tập , giúp bạn đọc có thể dễ dàng theo dõi tập thơ Nôm bất hủ của nhà hiền tài Nguyễn Trãi.

Thuật hứng bài 1

Trúc mai bạn cũ họp nhau quen, Cửa mận tường đào chân ngại chen. Chơi nước chơi non đeo tích cũ, Qua ngày qua tháng dưỡng thân nhàn. Thì nghèo sự biến nhiều bằng tóc, Nhà ngặt quan thanh lạnh nữa đèn. Mùi thế đắng cay cùng mặn chát, Ít nhiều đã vậy một hai phen.

Thuật hứng bài 2

Có thân thì cóc khá làm sao, Lửng vửng công hư, tuổi tác nào. Người ảo hoá khoe thân ảo hoá, Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao. Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm, Đường thế nào nơi chẳng thấp cao. Ai rặng mai hoa thanh hết tấc, Lại chăng được chép khúc Ly tao.

Thuật hứng bài 3

Một cày một cuốc thú nhà quê, Áng cúc lan chen vãi đậu kê. Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng, Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về. Bá Di người rặng thanh là thú, Nhan Tử ta xem ngặt ấy lề. Hễ tiếng dữ lành tai quản đắp, Cầu ai khen liễn lệ ai chê.

Thuật hứng bài 4

Văn này ngâm thấy mấy chon von, Thương hải hay khao, thiết thạch mòn. Chí cũ ta liều nhiều sự hóc, Người xưa sử chép thấy ai còn ? Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc, Nước chảy âu khôn xiết bóng non. Thong thả lại toan nào của tích, Bạch mai vàng cúc để cho con.

Thuật hứng bài 5 述興

述興 旦場桃槾萼庄通, 圭寠埃乄主菊椿。 愁裵少陵邊乑泊, 興饒北海竆諸空。 梅庄崅傷梗玉, 竹日崐惜沼礕。 盃沒懎峼憂愛寠, 店挧滾滾搩朝東。Thuật hứng bài 5 Ðến trường đào mận ngạt chăng thông, Quê cũ ưa làm chủ cúc thông. Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc, Hứng nhiều Bắc Hải chén chưa không. Mai chăng bẻ thương cành ngọc, Trúc nhặt vun tiếc cháu rồng. Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

Thuật hứng bài 6

Cảnh cũ non quê nhặt chốc mòng, Chiêm bao ngờ đã đến trong. Chè tiên nước ghín bầu in nguyệt, Mai rụng hoa đeo bóng cách song. Gió nhặt đưa qua trúc ổ, Mây tuôn phủ rợp thư phòng. Thức nằm nghĩ ngợi còn mường tượng, Lá chưa ai quét cửa thông.

Thuật hứng bài 7

Còn lều mọn mọn đẹp sao, Trần thế chẳng cho bén mấy hào. Khách lạ đến ngàn, hoa chửa rụng, Câu mầu ngâm dạ, nguyệt càng cao. Những màng lẩn quất vườn lan cúc, Ắt ngại lanh chanh áng mận đào. Ngựa ngựa xe xe la ỷ tốt, Rập rìu là ấy chiêm bao.

Thuật hứng bài 8

Hễ kẻ làm quan đã có duyên, Tới lui mặc phận tự nhiên. Thân xưa hương hoả chăng còn ước, Chí cũ công danh đã phỉ nguyền. Trẻ hoà sang ấy phúc, Già được lọn là tiên. Cho về cho ở đều ơn chúa, Lọ phải chon chăn đến cửa quyền.

Thuật hứng bài 9

Cối cây là đá lấy làm nhà, Lân các âi hầu mạc đến ta. Non lạ nước thanh làm dấu, Đất phàm cõi tục cách xa. Thiên thai hái thuốc duyên gặp, Vị thuỷ gieo câu tuổi già. Cốt lãnh hồn thanh chăng khứng hoá, Âu còn nợ chúa cùng cha.

Thuật hứng bài 10

Kim cốc phong lưu nữa để hoang, Hôm mai uổng chịu nhọc toan đang. Giàu mấy kiếp tham lam bấy, Sống bao lâu, đáo để màng. La ỷ rập rìu, hàng chợ họp, Cửa nhà bịn rịn, tổ ong tàng. Thiên thơ án sách qua ngày tháng, Một khắc cầm nên mấy lạng vàng.

Thuật hứng bài 11

Ruộng đôi ba khóm đất con ong, Đầy tớ hay cày kẻo muộn mòng. Sự có cầu người nên rẻ mặt, Phận tuy rằng khó miễn yên lòng. Thu om, cửa trúc mây phủ, Xuân tĩnh, đường hoa gấm phong. Ai có cửa thông phòng thết khách, Một ao niềng niễng mấy dòng dòng.

Thuật hứng bài 12

Nhà ngặt bằng ta ai kẻ vì, Khó khăn phải luỵ đến thê nhi. Đắc thì thân thích chen chân đến, Thất sở láng giềng ngoảnh mặt đi. Lều tiện Nhan Uyên tìm tới đỗ, Đường cùng Nguyễn Tịch khóc làm chi. Thu song vắng vẻ nhàn vô sự, Tai chẳng còn nghe tiếng thị phi.

Thuật hứng bài 13

Buồng văn đắp cửa lọn ngày thu, Đèn sách nhàn làm thong thả nho. Thua được toan chi cơ Hán Sở, Nên chăng đành lẽ chuyện Thương Chu. Say mùi đạo, chè ba chén, Tả lòng phiền, thơ bốn câu. Khó miễn vui, chăng thửa trách, Vì chưng đời có chúa Đường Ngu.

Thuật hứng bài 14

Am quê về ở dưỡng nhàn chơi, Yên phận yên lòng kẻo tiếng hơi. Ta quản tiêu dao qua mấy thế, Ai từng phú quý mấy trăm đời. Thân nhàn đến chốn dầu tự tại, Xuân muộn nào hoa chẳng rụng rơi. Nhìn thấy Ngu Công tua sá hỏi, Non từ nay mựa tốn công dời.

Thuật hứng bài 15

Ngại ở nhân gian lưới trần, Thì nằm thôn dã miễn yên thân. Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử, Viên hạc đà quen bạn dật dân. Hái cúc ương lan hương bén áo, Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn. Đàn cầm suối trong tai dội, Còn một non xanh là cố nhân.

Thuật hứng bài 16

Già chơi dầu có của no dùng, Chén rượu câu thơ ấy hứng nồng. Ngỏ tênh hênh nằm cửa trúc, Say lểu thểu đứng đường thông. Làm quan thờ dại tài chẳng đủ, Về ở thanh nhàn hẹn đã hồng. Lừng lựng người rằng chuông ấy đá, Đóng thì cũng có tiếng cong cong.

Thuật hứng bài 17

Thân nhân dạo khắp tây đông, Đường tới mười thu khỏi bụi hồng. Dịp huyện hoa còn quyến khách, Rầy biên tuyết đã thành ông. Đành hay thương hải đòi thì biến, Đà biết nhân gian mọi sự không. Chẳng phạp giang hồ nơi vắng vẻ, Cảnh thanh lọ ước cảnh non Bồng.

Thuật hứng bài 18

Phú quý bao nhiêu người thế gian, Mơ mơ bằng thuở giấc Hoè An. Danh thơm một áng mây nổi, Bạn cũ ba thu lá tàn. Lòng tiện soi, dầu nhật nguyệt, Thề xưa hổ, có giang san. Ấy còn cậy cục làm chi nữa, Nếu cốt chưa nòng, chẫm chửa toan

Thuật hứng bài 19

Chụm tự nhiên một thảo am Dầu lòng đi Bắc liễn về Nam Rừng thiền định, hùm nằm trực Trái thì trai, vượn nhọc đem Núi láng giềng, chim bầu bạn Mây khách khứa, nguyệt anh tam Tào Khê rửa ngàn tầm suối Sạch chẳng còn một chút phàm.

Thuật hứng bài 20

Non Phú Xuân cao, nước Vị thanh, Mây quen nguyệt khách vô tình. Đất thiên tử dưỡng tôi thiên tử, Đời thái bình ca khúc thái bình. Cơm áo khôn đền Nguyêu Thuấn trị, Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh. Rầy mừng thiên hạ hai của: Tể tướng hiền tài, chúa thánh minh.

Thuật hứng bài 21

Khó khăn thì mặc có màng bao, Càng khó bao nhiêu chí mới hào. Đại địa dầy, Nam nhạc khoẻ, Của tiêu vắng, Bắc thần cao. Lấy khi đầm ấm pha khi lạnh, Giữ thuở khô khao có thuở dào. Kìa nếu Tô Tần ngày trước, Chưa đeo tướng ấn có ai chào.

Thuật hứng bài 22

Chụm tự nhiên một tấm lều, Qua ngày tháng lấy đâu nhiều. Gió tịn rèm thay chổi quét, Trăng kề cửa kéo đèn khêu. Cơm ăn chẳng quản dưa muối, Áo mặc nài chi gấm thêu. Tựa gốc cây ngồi hóng mát, Lều hiu ta hãy một lều hiu.

Thuật hứng bài 23

Bình sinh nhiễm được tật sơ cuồng, Con cháu nhiều ngày chịu khó dường. La ỷ lấy đâu chăng lái xái, Hùng ngư khôn kiếm phải thèm thuồng. Áo quan thả gửi hai bè muống, Đất bụi ương nhờ một mảnh mồng. Còn có một lòng âu việc nước, Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.

Thuật hứng bài 24 述興

述興 功名乑特合駆閑, 冷與謳之世議慿。 傉喼越鄽萞夢, 池清發礊秧蓮。 庫收風月苔戈耨, 船阻煙霞裵尾傁。 盃固沒峼忠免孝, 砙庄缺染庄顛。Thuật hứng bài 24 Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen. Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then. Bui có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

Thuật hứng bài 25

Lánh trần náu thú sơn lâm, Lá thông còn tiếng trúc cầm. Sách cũ ngày tìm người hữu đạo, Trì thanh đêm quyến nguyệt vô tâm. Say hết tấc lòng hồng hộc, Hỏi làm chi sự cổ câm (kim). Thế sự dầu ai hay buộc bện, Sen nào có bén trong lầm.

Tự thán bài 1

Càng một ngày càng ngặt đến thân, Ắt vì số mệnh, ắt văn chương. Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu, Kể hãy bằng quỳ hướng thái dương. Chè thuở tiên thì mình ghín nước, Cầm khỉ đàn khiến thiếp thiêu hương. Non quê ngày nọ chiêm bao thấy, Viên hạc chăng hờn lại những thương.

Tự thán bài 2

Non hoang tranh vẽ chập hai ngàn Nước mấy dòng thanh ngọc mấy hàn Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng Cật chưng hồ hải đặt chưa an Những vì thánh chúa âu đời trị Khá kể thân nhàn tiếc tuổi tàn Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt Túi thơ chứa hết mọi giang san.Chữ Nôm: 筃荒幀尾蟄侼岸 搩亖匇清玉亖寒 念寠生靈刁乙裵 詰徵湖海達諸安 仍為聖主謳圅治 可計身閑惜歲殘 承旨埃浪時庫兀 覰撪貯歇每江山

Tự thán bài 3

Dương trường đường hiểm khúc co que, Quê chợ bao nhiêu khách đẩy xe. Phú quý treo sương ngọn cỏ, Công danh gửi kiến cành hoè. Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc, Ngày tháng tiêu ma một bát chè. Chân chạy cánh bay ai mấy phận, Thiên công nào có thuở tư che.

Tự thán bài 4

Non nước cùng ta đã có duyên, Được nhàn sá dưỡng tính tự nhiên. Trường canh hỏi nguyệt tay dừng chén, Pha lão chơi thu khách nổi thuyền. Lòng chẳng mắc tham là của báu, Người mà hết luỵ ấy thân tiên. Vua Nghiêu Thuấn, dân Nguyêu Thuấn, Dường ấy ta đà phi thửa nguyền.

Tự thán bài 5

Thiếu niên trường ốc tiếng hư bay, Phải luỵ vì danh đã hổ thay. Áng cúc thông quen vầy bậu bạn, Cửa quyền quý ngại lượm chân tay. Qua đòi cảnh chép câu đòi cảnh, Nhàn một ngày nên quyển một ngày. Tuổi đã năm mười đầu đã bạc, Ấy còn bìu rịn lấy chi vay!

Tự thán bài 6

Ở thế thường hiềm khác tục ngươi, Đến đây rằng hết tiếng chê cười. Kể ngày con nước toan triều lạc, Bạn chúng chẳng chài chác cá tươi. Rượu đối cầm đâm thơ một thủ, Ta cùng bóng liễn nguyệt ba người. Tai thường phỏng dạng câu ai đọc, Rất thân sinh bẩy tám mươi.

Tự thán bài 7

Giầu (trầu) chẳng kịp, khó còn bằng, Danh lợi lòng đà ắt dửng dưng. Dò trúc xông qua làn suối, Tìm mai theo đạp bóng trăng. Giang sơn bát ngát kìa quê cũ, Tùng cúc bù trì ấy của hằng. Một phút thanh nhàn trong thuở ấy, Nghìn vàng ước đổi được hay chăng ?

Tự thán bài 8

Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình, Nài bao ngôi cả áng công danh. Vô tâm trì có trăng bạc, Được thú kho đầy gió thanh. Trẻ, dầu chơi con tạo hoá, Già, lọ phục thuốc trường sinh. Dưỡng nhàn miễn được qua ngày tháng, Non nước còn ghê chốn hữu tình.

Tự thán bài 9

Nắng quáng thưa thưa bóng trúc che, Cây im thư thất sáng bằng the. Tỏ tường phiến sách con Chu Dịch, Bàn bạc lòng nhàn cái quít chè. Đòi thuở khó khăn chăng xuýt ải, Thấy nơi xao xác đã mày nề. Ngày nhàn gió khoan khoan đến, Thơn thớt cài song giấc hoè.

Tự thán bài 10

Tơ tóc chưa hề báo sở sinh, Già hoà lủ, tủi nhiều hành. Chông gai nhẹ đường danh lợi, Mặn lạt no mùi phế tình. Sách một hai phiên làm bậu bạn, Rượu năm ba chén đổi công danh. Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa, Cầu một ngồi coi đời thái bình.

Tự thán bài 11

Con lều mòn mọn cách hồng trần, Vướng vặt tư mùa những bạn thân. Trúc Tưởng Hủ nên thêm tiết cứng, Mai Lâm Bô đâm được câu thần. Trượng phu non vắng là tri kỷ, Tiên khách nguồn om ấy cố nhân. Mấy của yêu đương đà chiếm được, Lại mong chiếm cả hết hoà xuân.

Tự thán bài 12

Lọ chi tiên bụt nhọc tầm phương, Được thú an nhàn ngày tháng trường. Song có hoa mai, trì có nguyệt, Án còn phiến sách, triện còn hương. Tôi ngươi một tiết bền bằng đá, Biên tóc mười phần chịu những sương. Chữ học ngày xưa quên hết dạng, Chẳng quên có một chữ cương thường.

Tự thán bài 13

Phú quý lòng hơn phú quý danh, Thân hoà tự tại thú hoà thanh. Tiền sen tích để bao nhiêu thúng, Vàng cúc đem cho biết mấy bình. Ngoài cửa mận đào là khách đỗ, Trong nhà cam quýt ấy tôi mình. Ai hay ai chẳng hay thì chớ, Bui một ta khen ta hữu tình.

Tự thán bài 14

Lều nhàn vô sự ấy lâu dài, Nằm ở chẳng từng khuất nhiễu ai. Tuyết đượm chè mai câu dễ động, Trì in bóng nguyệt hứng thêm dài. Quyển thi thư những màng quên mặt, Tiếng thị phi chăng đóng đến tai. Chẳng thấy phiền hoa trong thuở nọ, Ít nhiều gửi kiến cành hoè.

Tự thán bài 15

Lòng người man xúc nhọc đua hơi, Chẳng cóc nhân sinh gửi chơi. Thoi nhật nguyệt đưa qua mấy phút, Áng phồn hoa họp mấy trăm đời. Hoa càng khoe tốt, tốt thì rữa, Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi. Mới biết doanh hư đà có số, Ai từng cải được lòng trời.

Tự thán bài 16

Chước toan chưa đẹp nẻo bình sinh, Đến thuở già lại trách mình. Khổ trúc chẳng ưa lòng khách bạc, Lão mai sá học nết người thanh. Công danh lỡ đường vô sự, Non nước ghê chốn hữu tình. Nào của cởi buồn trong thuở ấy, Có thơ đầy túi, rượu đầy bình.

Tự thán bài 17

Ngầm hay mùi đạo cực chưng ngon, Nghìn kiếp dầu ăn vuỗn hay còn. Nhật nguyệt dễ qua biên trắng, Cương thường khôn biến tấc son. Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc, Bia đá hay mòn nghĩa chẳng mòn. Giữ khăng khăng ai nỡ phụ, Phù trì mựa khá để chon von.

Tự thán bài 18

Lân la mến cảnh sơn khê, Sự thế nên vong hết mọi bề. Ngòi thuở triều cường chờ nguyệt mọc, Cây khi ác lặn rước chim về. Giàu mặc phận, nguôi lòng ước, Chật yên bần, ấy cổ lề. Ắt muốn đến chơi thành thị nữa, Âu là non nước nó đàn chê.

Tự thán bài 19

Tài tuý chăng ngộ trí chăng cao, Quyền đến trong tay chí mới hào. Miệng khiến tửu binh phá luỹ khúc, Minh làm thi tướng đánh đàn tao. Cầm khua hết ngựa, cờ khua tượng, Chim bắt trong rừng, cá bắt ao. Còn có anh hùng bao nả nữa, Đòi thì vậy, dễ hơn nào.

Tự thán bài 20

Thế những cười ta rằng đánh thơ, Dại hoà vụng hết lừ khừ. Lừa tìm ngàn Bá nhờ mai bảo, Thuyền nổi dòng thu có nguyệt đưa. Ngoài cửa mừng người dầu cái vẹt, Trong nhà thết khách mặc con cờ. Áo dành một tấm cơm hai bữa, Phần ấy chưng ta đã có thừa.

Tự thán bài 21

Làm người hay một hoạ hay hai, Mựa cậy sang, mựa cậy tài. Tiết trực cho bằng đá sắt, Đường đi sá lánh chông gai. Miệng người như mật mùi qua ngọt, Đạo thánh bằng tơ mối hãy dài. Ngõ ốc nhường khiêm là mỹ đức, Đôi co ai dễ kém chi ai.

Tự thán bài 22

Đương cơ ai dễ khứng nhường ai, Thua được tình cờ có một mai. Gạch quẳng nào bày mấy ngọc, Sừng hằng những mọc qua tai. Làm lành mới cậy chớ làm dữ, Có đức thì hơn nữa có tài. Mấy kẻ tư văn sinh đất Việt, Đạo này nối nắm để cho dài.

Tự thán bài 23

Nẻo xưa nay cũng một đường, Đây xóc xóc nẻo tam cương. Đạo này để trong trời đất, Nghĩa ấy bền chưng đá vàng. Gió kíp hay là cỏ cứng, Đục nhiều dễ biết đường quang. Tôi ngươi thì một lòng trung hiếu, Mựa để nghìn đời tiếng hổ hang.

Tự thán bài 24

Ngồi coi tháng lọn liễn ngày qua, Luống phụ triều đình luống phụ nhà. Đầu kế lăng căng những hổ, Thân nhàn lục cục mấy già. Giang sơn cách đường nghìn dặm, Sự nghiệp buồn đêm trống ba. Nợ cũ chước nào báo bổ ? Ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha.

Tự thán bài 25

Xin làm mấy bộ quản giang san, Có biết đâu là sự thế gian. Củi hái mây dầu trúc bó, Cầm đưa gió mặc thông đàn. Ngày xem hoa rụng chẳng cài cửa, Tối rước chim về mựa lạc ngàn. Gửi tính ngư tiều hai đứa lẩn, Của ai non nước khiến ta bàn.

Tự thán bài 26

Lề phú tính, uốn nên hình, Ắt đã trừng trừng nẻo thuở sinh. Há chẳng biến dời cùng thế thái, Nhưng âu tư túi có thần minh. Cưu lòng nhụ tử làm thơ dại, Ca khúc Thương Lang biết trọc thanh. Xét sự đà qua hay sự đến, Bao nhiêu nơi nhục bởi nơi vinh.

Tự thán bài 27

Thiêu hương đọc sách quét con am, Chẳng bụt chẳng tiên ắt chẳng phàm. Ánh cửa trăng mai thấp thấp, Cài song gió trúc nàm nàm. Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực, Dòng nước Liêm Khê lục nữa chàm. Tiêu sái mấy lòng đà mạc được, Bảo chăng khứng mạc một lòng thơm.

Tự thán bài 28

Non tây bóng ác đã mằng tằng, Nhìn đỉnh tùng thu vẳng chừng. Thư nhạn lạc lài khi gió, Tiếng quyên khắc khoải thuở trăng. Gia san cũ còn mường tượng, Thân sự già biếng nói năng. Khó ngặt qua ngày xin sống, Xin làm đời trị mấy đời bằng.

Tự thán bài 29

Phúc thay sinh gặp thuở thăng bình, Nấn ná qua ngày được dưỡng mình. Trong mặt những mừng ơn bậu bạn, Trên đầu luống đội đức triều đình. Tuổi cao tóc bạc cái râu bạc, Nhà ngặt đèn xanh con mắt xanh. Ở thế đấng nào là của trọng, Bui chẳng đã đạo làm lành.

Tự thán bài 30

Vận trị cùng loàn chỉn mặc thì, Bằng ta sinh uổng có làm chi. Ơn vua luống nhiều phần đội, Việc nước nào ích mấy bề. Rắp tới đã chăng hay chốn tới, Hầi đi lại chửa biết đường đi. Tôi ngươi hết tấc lòng trung hiếu, Ai há hiệu nơi thịnh suy.

Tự thán bài 31

Nước xuôi nước ngược nổi đòi triều, Thuyền khách chơi thu gác lướt chèo. Mái thác trăng dường thế hứng, Buồm nhân gió mặc khi xiêu. Phơ phơ đầu bạc ông câu cá, Lẻo đẻo duềnh xanh con mắt mèo. Âu lộ cùng ta dường có ý, Đến đâu thì thấy nó đi theo.

Tự thán bài 32

Chụm tự nhiên lều một gian, Giũ không thay thảy tấm hồng trần. Nghìn hàng cam quít con đòi cũ, Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân. Thấy nguyệt tròn khi kề tháng, Nhìn hoa nở mới hay xuân. Cày ăn đào uống yên đòi phận, Sự thế chăng hay đã Hán Tần.

Tự thán bài 33

Kẻ thì nên bụt kẻ nên tiên, Tượng thấy ba thân đã có duyên. Bành được thương thua, con tạo hoá, Diều bay cá nhẩy, đạo tự nhiên. Có thân mựa lệ phạp bằng hữu, Đọc sách thì xem thấy thánh hiền. Ta nếu ở đâu vui thú đấy, Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền.

Tự thán bài 34

Tự nhiên đắp đổi đạo trời, Tiêu trưởng doanh hư một phút dời. Muối liễn dưa dầu đủ bữa, Thêu cùng gấm mặc chưng đời. Công danh bịn rịn già lủ, Tạo hoá đong lừa trẻ chơi. Sự thế đã hay thì vậy, Có ai cóc được mấy cười cười.

Tự thán bài 35

Nương náu qua ngày chẳng lọ nhiều, Chân rừng chụm một gian lều. Cửa hiềm khách tục nào cho đến, Song vắng chim phàm chửa tới kêu. Ngắm hoa tàn xem ngọc rụng, Soi nguyệt xấu kẻo đèn khêu. Giàu những của tự nhiên ấy, Khủng khỉnh dầu lòng ở đất Nghiêu.

Tự thán bài 36

Uổng có thân nhàn cực thửa nuôi, Ghê đường dại dột mấy nên xuôi. Nào ai dễ có lòng chân thật, Ở thế tin gì miệng đãi bôi. Không khảy kẻ cười cùng kẻ thốt, Khó khăn người rẻ liễn người roi. Nhân gian mọi sự đều nguôi hết, Một sự quân thân chẳng khứng nguôi.

Tự thán bài 37

Nẻo từ nước có đao binh, Nấn ná am quê cảnh cực thanh. Đình Thấu Ngọc tiên xanh tuyết nhũ, Song mai hoa điểm quyển Hy kinh. Hẹn này nỡ phụ ba đường cúc, Tiếc ấy vì hay một chữ đinh. Mọi sự đã chăng còn ước nữa, Nguyện xin một thẩy thuở thăng bình.

Tự thán bài 38

Phồn hoa một đoạn tỉnh mơ, Mẻ chuông tàn, cảnh suất sơ. Chim có miệng kêu, âu lại ngậm, Cáo khuyên lòng ở, mựa còn ngờ. Chẳng cài cửa tiếc non che khuất, Sá để thuyền cho nguyệt chở nhờ. Ta ắt muốn nhàn, quan muốn lạnh, Lo thay! Vì luỵ phải thờ ơ.

Tự thán bài 39

Lấy đâu xuất xử lọn hai bề, Được thú làm quan mất thú quê. Ngòi cạn ước ở làm cấn cấn, Cửa quyền biếng mặc áo thê thê. Mừng cùng viên hạc quen lòng thắm, Đã kẻo thuần lư bảo hẹn về. Thong thả dầu ta ngoài thế giới, La ngàn non nước một thằng hề.

Tự thán bài 40

Ngủ thì nằm, đói lại ăn, Việc vàn ai hỏi áo bô cằn. Tranh giăng vách nài chi bức, Đình thưởng sen năng có gian. Vườn quạnh dầu chim kêu hót, Cõi trần có trúc dừng ngăn. Già vuỗn lấy rượu phù khoẻ, Hoạ lại quên lòng khó khăn.

Tự thán bài 41

Chớ còn chẳng chẳng, chớ quyền quyền, Lòng hãy cho bền đạo khổng môn. Tích đức cho con hơn tích của, Đua lành cùng thế mựa đua khôn. Một niềm trung hiếu làm miều cả, Hai quyển thi thư ấy báu chôn. Ở thế làm chi câu thúc nữa, Nhi tôn đã có phúc nhi tôn.

Tự thuật bài 1

Thế gian đường hiểm há chăng hay ? Càng còn đi ấy thác vay! Nước kiến phong quang hầu mấy kiếp ? Rừng nho nấn ná miễn qua ngày. Tóc nên bạc, bởi lòng ưu ái, Tật được tiêu, nhờ thuốc đắng cay. Kỳ ký nô thai đà có đấy, Kẻ nhìn cho biết lại khôn hay.

Tự thuật bài 2

Tính ắt trần trần nẻo sinh, Ngại đòi thì thế biến nhiều hành. Tuổi tàn cảnh đã về ban muộn, Tóc bạc biên khôn chác lại xanh. Ở thế thì cho ta những thiệt, Khoe mình khá chịu miệng rằng lành. Khiêm nhường ấy mới miều quân tử, Ai thấy Di-Tề có thửa tranh ?

Tự thuật bài 3

Vuỗn sinh lẩn thẩn mấy già, Mọi sự đều nên “thuấn nhược đa”. Bà ngựa dầu lành, nào Bá Nhạc, Cái gươm nhẫn có, thiếu Trương Hoa. Ngon mùi đạo, phiến hoàng quyển, Tả lòng sấu, chén tử hà. Phong nguyệt dầu ta ai kẻ đoán, Được ngâm nga ắt sá ngâm nga.

Tự thuật bài 4

Khó khăn là của thế gian yêm, Huống mấy già dại một đêm. Cúc đợi đến thu hương chỉn muộn, Mai sinh phải tuyết lạnh chăng hiềm. Gia sơn đường cách muôn dặm, Ưu ái lòng phiền nửa đêm. Bể hiểm nhân gian ai kẻ biết ? Ghê thay thế nước vị qua mềm.

Tự thuật bài 5

Hơn thiệt dành phần sự chửa liều, Được nhàn ta ắt sá tiêu diêu. Ngọc lành nào có tơ vết, Vàng thực âu chi lửa thiêu. Ỷ Lý há cầu quan tước Hán, Hứa Do quản ở nước non Nghiêu. Phồn hoa chẳng dám, ngặt yên phận, Trong thế anh hùng ấy mới nhiều.

Tự thuật bài 6

Lan còn chín khúc cúc ba đường, Quê cũ chẳng về nỡ để hoang. Thương nhẫn Biện Hoà ngồi ấp ngọc, Đúc nên Nhan tử tiếc chi vàng. Quan thanh bằng nước nhà bằng khánh, Cảnh ở tựa chiền lòng tựa sàng. Dường ấy của no cho bậc nớ, Hôm dao đáo để có công mang.

Tự thuật bài 7

Thuốc tiên thường phục tử hà sa, Bồng đảo khôn tìm ngày tháng qua. Tính ắt nhuốm cùng bầy mộc thạch, Lòng còn chạnh có thú yên hà. Lồng chim ao cá từ làm khách, Ngòi nguyệt ngàn mai phụ lệ nhà. Cửa động chẳng hay lìa nẻo ấy, Bích đào đã mấy phát đâm hoa.

Tự thuật bài 8

Mấy thu áo khách nhuốm hơi dầm, Bén phải Đông hoa bụi bụi xuân. Rủ vượn hạc xin phương giải tục, Quyến mai trúc kết bạn tri âm. Nha tiêm tiếng động yên Chu Dịch, Thạch đỉnh hương tàn khói thuỷ trầm. Lều tiện qua ngày yên thửa phận, Đài cao chẳng lọ tháp Hoàng câm (kim).

Tự thuật bài 9

Ở thế nhiều phen thấy khóc cười, Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi. Lòng người một sự yêm chưng một, Đèn khách mười thu lạnh hết mười. Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng, Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi. Ai ai đều có hai con mắt, Xanh bạc dầu chưng mặt chúng ngươi.

Tự thuật bài 10

Danh chăng chác, lộc chăng cầu, Được ắt chẳng mừng mất chẳng lâu. Có nước nhiễu song non nhiễu cửa, Còn thơ đầy túi rượu đầy bầu. Người tri âm ít, cầm nên lặng, Lòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu. Mấy kẻ công danh nhàn lẵng đẵng, Mồ hoang cỏ lục thấy ai đâu.

Tự thuật bài 11

Hoạn nạn nhiều thu tổn khí hào, Lâm tuyền chưa khứng dứt chiêm bao. Nước càng tuôn đến bể càng cả, Đất một chồng thêm núi một cao. Sự thế chưng ta dầu đạm bạc, Hiên mai đeo nguyệt quản tiêu hao. Vũ truyền thiên hạ, Nhan Uyên ngặt, Đổi đất song thì có khác nào.

Tức sự bài 1

Chạnh yên hà, trải một gian đình, Quét đất thiêu hương giảng ngũ kinh. Chim đỗ tổ nhìn còn biết mặt, Hoa nên rừng thấy hoạ hay danh. Đai lân phủ hổ lòng chăng ước, Bến trúc rừng thông cảnh cực thanh. Có thuở giang lâu ngày đã tối, Thuyền hoà còn dội tiếng đinh đinh.

Tức sự bài 2

Lấy miều phú quý đổi miều nhàn, Có kẻ thì chê có kẻ khen. Chốn ở trải gian lều lá, Mùa qua chằm bức áo sen. Hoa còn để rụng lam đất, Cửa một đường cài lướt then. Ai thấy rằng cười là thế thái, Ghê thế biến bạc làm đen.

Tức sự bài 3

Thư trai vắng vẻ cảnh ngày trường, Một quyển Hy kinh một hiện trường. Lẻo chân nằm vườn Độc Lạc, Chùm lều ở đất Nam Dương. Hoa chăng thay rụng bày chi phấn, Thông bá bù trì mộng quyết lương. Mựa trách thế gian lòng đàm bạc, Thế gian đạm bạc lấy lòng thường.

Tức sự bài 4

Giậu thưa thưa hai khóm trúc, Giường thấp thấp một nồi hương. Vượn chim kết bạn non nước quạnh, Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường. Hài có đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bô quen cật vận xuềnh xoàng. Bốn dân nghiệp có cao cùng thấp, Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng.

Tự giới

Làm người thì giữ đạo trung dung, Khăn khắn dặn dò thửa lòng. Hết kinh hết gìn bề tiến thoái, Mựa tham mựa dại nết anh hùng. Hùm oai muông mạnh còn nằm cũi, Khướu hót chim khôn phải ở lồng. Nén lấy hung hăng bề huyết khí, Tai nàn chẳng phải lại thung dung.
 
Bài Nhiều Lượt Xem  Soạn bài: Trả bài tập làm văn số 5 Trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 8